Dự án đầu tư PPP là gì? Thực trạng áp dụng mô hình PPP tại Việt Nam hiện nay

0
Thuật ngữ đầu tư

Dự án đầu tư PPP là hình thức đầu tư được thực hiện giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cùng các doanh nghiệp, nhà đầu tư dựa trên cơ sở hợp đồng dự án với mục đích cải tạo, xây dựng, vận hành, quản lý, kinh doanh về các công trình hạ tầng và cung cấp dịch vụ công. Để hiểu rõ hơn về dự án đầu tư PPP cũng như các thông tin liên quan, mời bạn đọc tìm hiểu qua bài viết dưới đây.

Dự án đầu tư PPP là gì?

Dự án đầu tư PPP

Dự án đầu tư PPP

Định nghĩa dự án đầu tư PPP được định nghĩa tại Nghị định 63/2018/NĐ-CP như sau: “1. Đầu tư theo hình thức đối tác công tư (sau đây gọi tắt là PPP) là hình thức đầu tư được thực hiện trên cơ sở hợp đồng dự án giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để xây dựng, cải tạo, vận hành, kinh doanh, quản lý công trình hạ tầng, cung cấp dịch vụ công.”

Theo đó, PPP (là viết tắt của cụm từ tiếng Anh Public – Private Partnership). Tại Việt Nam, dự án đầu tư PPP đã được triển khai từ nhiều năm nay. Mối quan hệ đối tác giữa các chủ đầu tư và cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với hình thức này sẽ được thiết lập ràng buộc về pháp lý hay một số cơ chế liên quan khác thông qua một hợp đồng. Theo quy định trong hợp đồng, các bên đồng ý chia sẻ trách nhiệm liên quan đến việc lập kế hoạch và thực hiện các dự án cơ sở hạ tầng.

>>> Xem thêm: Dự án đầu tư mở rộng là gì? Điều kiện hưởng ưu đãi với dự án đầu tư mở rộng

Ưu điểm và hạn chế của dự án PPP

Ưu điểm:

  • Có thể tiết kiệm nguồn lực của Chính phủ chính là ưu điểm chính của dự án PPP. Theo đó, Chính phủ không cần phải dựa vào nguồn lực của mình để thực hiện dự án mà chỉ cần tập trung vào việc quản lý dự án. Do đó, nguồn lực và tài sản của Chính phủ sẽ được sử dụng hiệu quả hơn, các cơ sở công cộng được nâng cao chất lượng cũng như nâng cao dịch vụ công được nâng cao. 
  • Mặt khác, việc sử dụng hợp lý các kỹ năng, kinh nghiệm của khu vực tư nhân, sáng tạo và đổi mới, kỹ thuật, các dịch vụ công có thể được thực hiện nhiều hơn.
  • Chính phủ và các khu vực tư nhân có thể thông qua PPP chia sẻ rủi ro ở các giai đoạn khác nhau. 
  • Rủi ro của chậm tiến độ của dự án và việc vượt quá chi phí vốn có thể được giảm mạnh khi các dự án đầu tư công có sự tham gia của khu vực tư nhân. Đồng thời, cùng với việc thiết kế, vận hành và xây dựng hoàn thành các dự án PPP, khu vực tư nhân có thể giúp tạo ra một mô hình cấu trúc dịch vụ công với một hệ thống phân cấp hiệu quả hơn.

Nhược điểm:

Mặc dù, có thể coi PPP là một hình thức tạo ra cơ sở hạ tầng và sẽ do khu vực tư nhân chi trả chi phí, nhưng “không có bữa cơm nào là miễn phí cả”. theo Kumaraswamy và Zhang (2001) cho rằng, việc xảy ra các vấn đề ở một số trường hợp hợp đồng kinh doanh – xây dựng – chuyển giao (BOT) là do chi phí vượt quá, dự báo thu nhập không chính xác, giá thành không thực tế cũng như xảy ra tranh chấp pháp lý giữa nhà khai thác, tư nhân và chính phủ. Theo đó, Chính phủ cũng như khu vực tư nhân không gánh nổi chi phí trong nhiều trường hợp, điều này dẫn đến nguy cơ doanh nghiệp tư nhân phá sản và kém hiệu quả của PPP. Bên cạnh đó, cũng có nhiều trở ngại chính trị phần nào làm hiệu quả của PPP bị ảnh hưởng đến.

Đặc điểm của dự án đầu tư PPP

Dự án đầu tư theo hình thức PPP có những đặc điểm cơ bản như sau:

  • Cơ quan Nhà nước và các doanh nghiệp tư nhân chính là 2 chủ thể của hợp đồng PPP.
  • Hợp đồng PPP liên quan đến dịch vụ công và các công trình kết cấu hạ tầng.
  • Theo đó, đối với mỗi một dự án PPP sẽ có một loại hợp đồng phù hợp với các yêu cầu cụ thể cũng như đặc điểm mà Nghị định 63/2018/NĐ-CP quy định.

Lợi thế khi đầu tư dự án PPP

PPP là hình thức đầu tư đem lại hiệu quả tối cho các dự án công, đặc biệt đảm bảo cho các công trình công cộng chất lượng và không làm ngân sách của Nhà nước bị lãng phí, doanh nghiệp tư nhân tham gia vào dự án. Theo đó, những lợi ích mà dự án PPP đem lại cụ thể như sau:

  • Làm khả năng cung cấp các dịch vụ cơ sở hạ tầng cần thiết tăng lên.
  • Có thể không yêu cầu chi tiền mặt ngay lập tức nên sẽ giúp gánh nặng chi phí thiết kế và xây dựng giảm xuống.
  • Cho phép chuyển nhượng rủi ro dự án sang khu vực tư nhân.
  • Đưa ra những sự lựa chọn về công nghệ, xây dựng, thiết kế, vận hành và chất lượng cung cấp các dịch vụ hạ tầng tốt hơn.
  • Cung cấp nguồn lực đầy đủ để nhằm đáp ứng các nhu cầu ngày càng cao hiện nay.
  • Có khả năng tiếp cận công nghệ mới, cả phần cứng và phần mềm và có khả năng nắm bắt chúng một cách nhanh chóng.

Các hình thức thực hiện mô hình PPP

Có 5 hình thức phổ biến hiện nay trên thế giới như sau:

a) Mô hình nhượng quyền khai thác (Franchise) là hình thức mà theo đó cơ sở hạ tầng được xây dựng và sở hữu bởi nhà nước nhưng giao cho tư nhân quyền vận hành và khai thác (thường là thông qua đấu giá).

b) Mô hình thiết kế – xây dựng – tài trợ – vận hành DBFO (Design- Build – Finance – Operate), theo đó việc xây dựng, tài trợ và vận hành công trình sẽ do khu vực tư nhân đứng ra tiền hành, tuy nhiên nó vẫn thuộc sở hữu nhà nước.

c) Mô hình xây dựng – vận hành – chuyển giao BOT (Build – Operate – Transfer), đây là hình thức mà việc xây dựng và vận hành công trình sẽ do công ty thực hiện dự án đứng ra tiến hành trong một khoảng thời gian nhất định và sau đó lại chuyển giao toàn bộ cho nhà nước.

d) Mô hình BTO (xây dựng – chuyển giao – vận hành), đây là mô hình sẽ chuyển giao ngay cho nhà nước sở hữu sau khi xây dựng xong nhưng quyền khai thác công trình vẫn thuộc về công ty thực hiện dự án.

đ) Mô hình xây dựng – sở hữu – vận hành BOO (Build – Own – Operate) là hình thức công ty đảm nhận thực hiện dự án sẽ đứng ra xây dựng công trình và sở hữu cũng như vận hành công trình. 

Những mô hình dự án đầu tư PPP được cho phép tại Việt Nam

Những mô hình dự án đầu tư PPP được cho phép tại Việt Nam

Tại Việt Nam, những mô hình dự án đầu tư PPP được cho phép hiện nay được quy định rõ tại Điều 3 Nghị định 63/2018/NĐ-CP gồm có:

“3. Hợp đồng Xây dựng – Kinh doanh – Chuyển giao (sau đây gọi tắt là hợp đồng BOT) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để xây dựng công trình hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án được quyền kinh doanh công trình trong một thời hạn nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án chuyển giao công trình đó cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

4.Hợp đồng Xây dựng – Chuyển giao – Kinh doanh (sau đây gọi tắt là hợp đồng BTO) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để xây dựng công trình hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án chuyển giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định.

5.Hợp đồng Xây dựng – Chuyển giao (sau đây gọi tắt là hợp đồng BT) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án (nếu có) để xây dựng công trình hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được thanh toán bằng quỹ đất, trụ sở làm việc, tài sản kết cấu hạ tầng hoặc quyền kinh doanh, khai thác công trình, dịch vụ để thực hiện Dự án khác.

6.Hợp đồng Xây dựng – Sở hữu – Kinh doanh (sau đây gọi tắt là hợp đồng BOO) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để xây dựng công trình hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án sở hữu và được quyền kinh doanh công trình trong một thời hạn nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư.

7.Hợp đồng Xây dựng – Chuyển giao – Thuê dịch vụ (sau đây gọi tắt là hợp đồng BTL) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để xây dựng công trình hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án chuyển giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được quyền cung cấp dịch vụ trên cơ sở vận hành, khai thác công trình đó trong một thời hạn nhất định; cơ quan nhà nước có thẩm quyền thuê dịch vụ và thanh toán cho nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án.

8.Hợp đồng Xây dựng – Thuê dịch vụ – Chuyển giao (sau đây gọi tắt là hợp đồng BLT) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để xây dựng công trình hạ tầng; sau khi hoàn thành công trình, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án được quyền cung cấp dịch vụ trên cơ sở vận hành, khai thác công trình đó trong một thời hạn nhất định; cơ quan nhà nước có thẩm quyền thuê dịch vụ và thanh toán cho nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án; hết thời hạn cung cấp dịch vụ, nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án chuyển giao công trình đó cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

9.Hợp đồng Kinh doanh – Quản lý (sau đây gọi tắt là hợp đồng O&M) là hợp đồng được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để kinh doanh một phần hoặc toàn bộ công trình trong một thời hạn nhất định.”

Nhà nước khuyến khích những lĩnh vực nào thực hiện theo dự án đầu tư PPP?

Cũng tại Điều 4 Nghị định 63/2018/NĐ-CP quy định rõ về các lĩnh vực mà Nhà nước khuyến khích thực hiện theo dự án đầu tư PPP, bao gồm:

  • Nhà máy điện, đường dây tải điện;
  • Giao thông vận tải;
  • Hệ thống cung cấp nước sạch; hệ thống chiếu sáng công cộng; hệ thống thoát nước; công viên; nghĩa trang; nhà, sân bãi để ô tô, xe, thiết bị, máy móc; hệ thống thu gom, xử lý chất thải, nước thải; 
  • Trụ sở cơ quan nhà nước; nhà ở xã hội; nhà ở công vụ; nhà ở tái định cư;
  • Giáo dục, đào tạo, dạy nghề; y tế; thể thao; văn hóa; du lịch; khí tượng thủy văn khoa học và công nghệ; ứng dụng công nghệ thông tin;
  • Hạ tầng thương mại; hạ tầng kỹ thuật công nghệ cao; hạ tầng khu kinh tế, khu đô thị, khu công nghiệp, khu công nghệ thông tin tập trung, cụm công nghiệp; cơ sở kỹ thuật, cơ sở ươm tạo, khu làm việc chung hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa;
  • Nông nghiệp và phát triển nông thôn; tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp dịch vụ phát triển liên kết sản xuất gắn với chế biến;
  • Các lĩnh vực khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

Theo đó, dự án PPP được phân loại theo tiêu chí quy định về đầu tư công của pháp luật thành dự án nhóm A, nhóm B và nhóm C, dự án quan trọng quốc gia.

Phần Nhà nước và xác định giá trị khi tham gia dự án đầu tư PPP

Phần Nhà nước khi tham gia vào dự án PPP được thực hiện theo một trong các hình thức cụ thể như sau:

Vốn góp của Nhà nước

  • Nguồn vốn do Nhà nước góp sẽ được sử dụng để hỗ trợ cho việc xây dựng công trình nhằm đảm bảo tính khả thi tài chính cho dự án;
  • Vốn do Nhà nước góp được bố trí từ nguồn vốn đầu tư công theo pháp luật quy định về tài sản công hoặc đầu tư công, theo quy định về quản lý và sử dụng tài sản công của pháp luật;
  • Phần vốn góp của Nhà nước bao gồm vốn đầu tư công và không áp dụng đối với dự án BT.

Vốn thanh toán cho nhà đầu tư

  • Nguồn vốn để thanh toán cho nhà đầu tư cung cấp dịch vụ theo hợp đồng BLT, BTL được sử dụng từ vốn thanh toán cho nhà đầu tư;
  • Nguồn vốn đầu tư công, nguồn chi thường xuyên sẽ được bố trí sử dụng để thanh toán cho nhà đầu tư nhằm duy trì hoạt động cung cấp dịch vụ công, nguồn thu từ hoạt động cung cấp dịch vụ công.

– Nguồn vốn đầu tư công sẽ được sử dụng để hỗ trợ xây dựng công trình phụ trợ, giải phóng, bồi thường mặt bằng và tái định cư.

– Trường hợp vốn vay nước ngoài của Chính phủ được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sử dụng để làm phần Nhà nước tham gia trong dự án PPP, thì việc sử dụng nguồn vốn này sẽ được thực hiện theo quy định về cho vay lại nguồn vốn vay nước ngoài của Chính phủ của pháp luật.

– Đối với dự án được đề xuất bởi nhà đầu tư, theo quy định tại Khoản 2 và 3 Điều 11 Nghị định 63/2018/NĐ-CP phần Nhà nước tham gia trong dự án PPP chỉ được bố trí nếu dự án không áp dụng hình thức chỉ định thầu đối với nhà đầu tư theo quy định về đấu thầu của pháp luật.

Giá trị phần Nhà nước tham gia trong dự án PPP được xác định

  • Trong dự án PPP, giá trị phần Nhà nước tham gia sẽ được xem xét dựa trên cơ sở phương án tài chính và khả năng cân đối của nguồn vốn cũng như các nguồn lực khác.
  • Trường hợp vốn góp của Nhà nước là tài sản công, ngành, bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, giá trị sẽ được xác định theo pháp luật về sử dụng và quản lý tài sản công cũng như làm cơ sở để xác định được nguồn vốn của Nhà nước góp trong dự án.
  • Khi phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi, giá trị phần Nhà nước tham gia trong dự án sẽ được xác định bởi cấp có thẩm quyền theo Khoản 1 Điều 31 Nghị định này quy định.

Thực trạng áp dụng mô hình PPP tại Việt Nam hiện nay

Trong vài năm trở lại đây, đối với việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng (CSHT), Việt Nam đã có rất nhiều nỗ lực. Bên cạnh huy động từ ngân sách nhà nước về nguồn vốn, Việt Nam cũng đã tích cực huy động vốn từ các thành phần ngoài nhà nước cũng như từ các doanh nghiệp thực hiện các dự án CSHT theo hình thức PPP. 

Theo Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Ðầu tư, đến hết năm 2018 tổng kết công tác PPP, dự án PPP cả nước gồm có 289 với tổng số vốn tương đương 54 tỷ USD. Trong đó, có 18 dự án năng lượng 207 dự án về giao thông và nhiều dự án lĩnh vực giải trí, văn hóa khác. Chủ yếu các dự án này được đầu tư theo hợp đồng xây dựng – chuyển giao (BT – 140 dự án) và hình thức BOT (141 dự án), riêng đối với Bộ Giao thông Vận tải số vốn đã huy động được vào 68 dự án PPP là khoảng trên 209.732 tỷ đồng.

Trong đó, có 61 dự án đã hoàn thành đưa vào vận hành khai thác với tổng mức đầu tư gần 178.660 tỷ đồng, các dự án hiện đang triển khai gồm có 7 dự án với tổng mức đầu tư là 31.000 tỷ đồng. Bên cạnh đó, dự án (với tổng vốn 144.792 tỷ đồng) đầu tư các công trình xây dựng dưới hình thức PPP còn có 104 dự án từ 41 tỉnh và thành phố trong cả nước, trong đó, đã hoàn thành và được đưa vào khai thác 51 dự án (với vốn đầu tư 34.985 tỷ đồng).

Hình 1

Theo đó, 2 địa phương thu hút dự án PPP lớn nhất cả nước là TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội. Theo báo cáo của Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố tính đến tháng 9/2017, Hà Nội đã xây dựng phương án đề xuất đầu tư dưới hình thức PPP 128 dự án (với tổng số vốn 332.030 tỷ đồng), trong đó, số dự án đã hoàn thành gồm có 8 dự án (với tổng vốn đầu tư 13.683 tỷ đồng), số dự án đang triển khai thực hiện là 9 dự án (với tổng vốn đầu tư 15.960 tỷ đồng). Tại TP. Hồ Chí Minh đã có 23 dự án với tổng vốn đầu tư đạt trên 71.000 tỷ đồng đã hoàn tất ký kết hợp đồng. Bên cạnh đó, số dự án đang ở bước chuẩn bị đầu tư gồm có 130 dự án với tổng số vốn dự kiến xấp xỉ 400.000 tỷ đồng và hiện đang tiếp tục kêu gọi 243 dự án với tổng mức đầu tư dự kiến khoảng 869.420 tỷ đồng.

Theo đó, trong các dự án PPP việc huy động vốn từ các nguồn ngoài Nhà nước đã góp phần tích cực giúp cải thiện đáng kể cơ sở hạ tầng cũng như góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế nước ta. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy trong thời gian qua, việc triển khai hình thức đầu tư này cũng còn tồn tại nhiều bất cập. Theo số liệu thống kê năm 2017 cho thấy, có khoảng 58% số dự án PPP cả nước là chỉ định nhà đầu tư. Về việc đề xuất các dự án khả thi để thực hiện đầu tư theo hình thức PPP, có nhiều bộ, địa phương còn chưa chủ động; dự án PPP đưa ra đấu thầu còn chưa được các nhà đầu tư quan tâm đến. Bên cạnh đó, vấn đề công tác công bố dự án, danh mục dự án, minh bạch thông tin chưa được thực hiện công khai và nghiêm túc. 

Trong giai đoạn trước khi Chính phủ ban hành Nghị định số 63/2018/NĐ-CP, các nội dung về thông tin hợp đồng (giá, phí hàng hóa, dịch vụ), tình hình thực hiện hợp đồng của nhà đầu tư trúng thầu người dân chưa được tiếp cận. Ngoài ra, cũng chưa phù hợp trong việc áp dụng loại hợp đồng, như trong lĩnh vực giao thông, một số tuyến đường chỉ nâng cấp, cải tạo nhưng người dân không có sự lựa chọn đối với các tuyến đường độc đạo hoặc vẫn phải trả phí. Từ đó, dẫn đến bất cập về mức phí, thời gian thu phí, vị trí đặt trạm thu phí được dư luận phản ánh trong thời gian qua.

Hình 2

Hình 2

Trong số các dự án nằm trong danh mục đầu tư theo phương thức PPP, dự kiến có nhiều dự án đầu tư vào vùng địa bàn khó khăn, thu hồi vốn trong thời gian dài, mà lợi ích của Nhà nước dành cho nhà đầu tư còn hạn chế và không rõ ràng hoặc chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn cao. Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện phải mất nhiều thời gian để giải ngân vốn do nhà nước cung cấp,… Có nhiều dự án vẫn chưa được thực hiện dù đã được đưa vào danh sách kêu gọi đầu tư từ nhiều năm trước. Đồng thời, do thiếu công cụ chia sẻ rủi ro cho dự án (bảo lãnh lưu lượng, doanh thu, chuyển đổi ngoại tệ, thay đổi quy hoạch…) cũng như thiếu cơ chế bố trí vốn đầu tư công tham gia đầu tư trong dự án PPP khiến cho dự án PPP kém hấp dẫn với nhà đầu tư.

Còn thiếu chặt chẽ trong công tác quản lý đối với các dự án PPP, nhiều khi bị buông lỏng chức năng, nhiệm vụ bởi một số cơ quan có trách nhiệm. Theo báo cáo kiểm toán cho thấy, có nhiều dự án giao cho chủ đầu tư thực hiện từ khâu phê duyệt, thẩm định dự án đầu tư, thiết kế dự toán và tự lựa chọn các đơn vị tư vấn thiết kế, giám sát, thi công dẫn đến việc tính khách quan có thể không đảm bảo. Công tác giám sát, quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước chưa được thực hiện đầy đủ, thường xuyên theo chức năng, nhiệm vụ được giao dẫn đến việc tất cả các khâu xảy ra sai sót, trong quá trình thi công thực hiện dự án điều này đã gây ra nhiều thất thoát. Vẫn còn nhiều hạn chế về năng lực của nhiều nhà đầu tư dự án PPP, trong lĩnh vực thực hiện, xây dựng và vận hành các dự án PPP chưa có kinh nghiệm. 

Theo Báo cáo của Kiểm toán năm 2017 của Nhà nước cho thấy, chủ yếu vốn đầu tư là vốn vay (khoảng 85%) và lãi được tính với lãi suất huy động tối đa bằng 1,3 lần lãi suất trái phiếu chính phủ, theo đó, vốn để đầu tư thực hiện toàn bộ dự án gần như là của Nhà nước, hoặc vốn Nhà nước đi vay với mức lãi suất cao hơn so với lãi suất mà Nhà nước huy động. Ngoài ra, mục đích thu hút vốn đầu tư của khu vực tư nhân là chưa đạt được như mong muốn, điều này đã làm giảm hiệu quả đầu tư do chi phí vốn cao.

Hiện các thủ tục liên quan tới dự án PPP còn phức tạp, rườm rà, bị chi phối bởi nhiều quan điểm không nhất quán, trong đó có những thủ tục mang tính hình thức, gây cho cả cơ quan quản lý nhà nước lẫn nhà đầu tư gặp nhiều khó khăn.

Những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện đầu tư theo PPP ở Việt Nam

– Hành lang pháp lý chưa đầy đủ, ổn định: Hành lang pháp lý của hình thức đầu tư PPP vẫn còn phụ thuộc vào các luật như: Luật Đấu thầu, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư công,… từ bước chuẩn bị đến triển khai đầu tư, vận hành và khai thác dự án bởi hiện các văn bản quy phạm pháp luật quy định về hoạt động này chỉ dừng lại ở mức nghị định của Chính phủ. Trong khi đó, những văn bản pháp luật này được xây dựng chủ yếu để điều chỉnh hoạt động đầu tư dự án công.

Hành lang pháp lý chưa đầy đủ và ổn định

Hành lang pháp lý chưa đầy đủ và ổn định

– Tại các bộ, ngành, địa phương bộ máy đầu mối, nhân sự thực hiện PPP chưa được rõ ràng, chủ yếu là chưa đáp ứng yêu cầu về kiêm nhiệm và năng lực;

– Tiến độ thực hiện dự án kéo dài: Quy mô của các dự án theo hình thức PPP thường lớn, đối với quá trình nghiên cứu thẩm định và xúc tiến cũng như hồ sơ trình duyệt phải trải qua nhiều bước; trong khi trước khi được tổng hợp và thẩm định trình cấp có thẩm quyền phê duyệt thì các quy định và thủ tục đầu tư từng bước lại yêu cầu cần phải có sự tham vấn của nhiều cơ quan, đơn vị có liên quan, do đó khiến cho tiến độ thực hiện dự án ảnh hưởng đến.

– Quỹ đất thanh toán cho các dự án BT không có sẵn: Đối với các dự án theo hình thức BT, hiện nay gần như không có sẵn quỹ đất sạch để thanh toán cho nhà đầu tư mà nhà đầu tư cần phải ứng vốn để đền bù giải phóng mặt bằng, địa phương phải có phương án sử dụng đất và thu hồi đất theo quy định,…

Một số giải pháp nhằm thúc đẩy tháo gỡ khó khăn trong hoạt động đầu tư theo PPP tại Việt Nam

Trong thời gian tới đây, Việt Nam cần tập trung vào thực hiện một số nội dung để phát huy lợi thế từ PPP mang lại như sau:

Một là, hoàn thiện khuôn khổ cơ sở pháp lý

Đối với các văn bản pháp lý hiện hành cần khẩn trương tiến hành rà soát lại và đề xuất những điều chỉnh cần thiết hoặc xây dựng cho PPP một bộ văn bản pháp quy riêng và mới (bao gồm cả những điều chỉnh những văn bản pháp quy hiện hành). Đặc biệt là, sớm ban hành Luật về PPP để nhằm tháo gỡ giải quyết những vướng mắc, thiếu sót và bất cập còn tồn tại trên, tạo lực khơi thông nguồn vốn đầu tư từ khu vực tư nhân, nhất là từ các nhà đầu tư nước ngoài, qua đó, tạo môi trường đầu tư lành mạnh, hấp dẫn và khuôn khổ pháp lý đầy đủ, rõ ràng tạo lòng tin cho nhà đầu tư và người dân.

Hai là, tăng cường công tác chọn lựa nhà thầu

Việc lựa chọn lựa nhà đầu tư là một bước vô cùng quan trọng và có ảnh hưởng lớn đến sự thành bại của dự án. Vì vậy, các dự án PPP cần tổ chức đấu thầu rộng rãi, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, công khai, minh bạch, nâng cao tính giải trình thay vì chỉ định nhà đầu tư theo cơ chế “xin – cho”, để có thể lựa chọn nhà đầu tư có đủ năng lực (năng lực tài chính, công nghệ, kỹ thuật, khả năng quản lý cũng như kinh nghiệm thi công,…), giúp triển khai các dự án đúng kế hoạch, đảm bảo về chất lượng cũng như thời gian thu hồi vốn. Xây dựng quy trình lựa chọn nhà đầu tư theo hướng đơn giản hóa, cụ thể là các nội dung trong kế hoạch lựa chọn nhà đầu tư đồng thời được phê duyệt trong báo cáo nghiên cứu khả thi.

Ba là, tăng cường công khai minh bạch thông tin

Đẩy mạnh việc công khai, minh bạch thông tin ở toàn bộ các bước như: Lựa chọn nhà đầu tư, chuẩn bị dự án, công khai, minh bạch việc ký kết hợp đồng trên hệ thống mạng đấu thầu quốc gia. Đặc biệt là đối với các đối tượng bị ảnh hưởng bởi dự án, dự thảo Luật Đầu tư theo hình thức PPP đã bổ sung cơ chế lấy ý kiến của những đối tượng bị dự án tác động đến. Cụ thể, trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư, cơ quan chuẩn bị dự án cần phải tổng hợp kết quả tham vấn ý kiến về tác động của dự án của các cá nhân, tổ chức có liên quan.

Bốn là, tạo lập cơ chế chia sẻ rủi ro của Chính phủ đối với nhà đầu tư

Trong PPP, sự tham gia của tư nhân có nghĩa là Nhà nước chuyển giao sang nhà đầu tư tư nhân một phần rủi ro, trong khi tìm kiếm lợi nhuận là mục tiêu của nhà đầu tư. Vì vậy, cần tính toán cẩn thận đối với việc phân bổ rủi ro và lợi ích kinh tế giữa các nhà đầu tư dự án PPP để đảm bảo thu hút được sự tham gia dự án của các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, vấn đề dự báo và xây dựng các phương án xử lý rủi ro trong đánh giá, đề xuất, thẩm định tính khả thi của dự án là đặc biệt quan trọng. Cần nghiên cứu và hoàn thiện các cơ chế như: Quỹ dự phòng dành cho bảo lãnh chính phủ, quỹ bù đắp thiếu hụt tài chính, áp dụng bảo lãnh doanh thu tối thiểu và bảo đảm rủi ro về chính sách, ngoại tệ và chính trị… theo hướng thu hút được các nhà đầu tư nhưng việc lập kế hoạch vay, kế hoạch ngân sách, trả nợ công vẫn đảm bảo được kết nối để tránh gây hệ lụy lớn cho ngân sách nhà nước.

Năm là, tăng cường kiểm tra, thanh tra, kiểm toán

Tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm toán dự án PPP và các chế tài xử phạt cũng như cần phải quy định rõ ràng về nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay cơ quan nhà nước. Trong đó, về giải quyết kiến nghị, tranh chấp và xử lý vi phạm; quyền hạn, nhiệm vụ, trách nhiệm của cá nhân, các cơ quan, tổ chức PPP thanh tra, kiểm tra chuyên ngành, giám sát hoạt động đầu tư theo phương thức PPP và kiểm toán nhà nước cần phải có quy định cụ thể.

Tăng cường kiểm tra, thanh tra

Tăng cường kiểm tra, thanh tra

Sáu là, hoàn thiện cơ chế tài chính cho PPP

Theo đó, về phía vốn nhà nước, có thể xem xét từng thời điểm việc bố trí nguồn vốn ngân sách trung ương cho các dự án PPP được lựa chọn phù hợp với kế hoạch đầu tư công và kế hoạch đầu tư tài chính trung hạn và dài hạn. Về phía tư nhân, nhà đầu tư nên có một số phương án huy động vốn đầu tư bên cạnh vốn vay ngân hàng, chẳng hạn như tiếp cận các khoản vay ODA và các nguồn vốn ưu đãi.

Kết luận

Trên đây là một số thông tin về dự án đầu tư PPP là gì, ưu điểm và hạn chế cũng như thực trạng áp dụng mô hình PPP tại Việt Nam và giải pháp nhằm thúc đẩy tháo gỡ khó khăn trong hoạt động đầu tư theo PPP tại Việt Nam. Hy vọng với những chia sẻ trong bài viết sẽ giúp bạn đọc quan tâm trang bị được thêm những kiến thức hữu ích về một hình thức đầu tư có sự xuất hiện của phần Nhà nước.

Tôi là Lan Anh - Biên tập viên phân tích tài chính, với 5 năm tìm hiểu về thị trường tài chính cũng như đầu tư. Rất hy vọng những kiến thức mà tôi học hỏi và tích lũy được có thể hỗ trợ, cung cấp đến các bạn những thông tin chính xác, tư vấn hỗ trợ xử lý các dịch vụ tài chính, đầu tư hiệu quả nhất!

dang-ky-dau-tu-nhat-nam

ĐĂNG KÝ TƯ VẤN MIỄN PHÍ NGAY

[contact-form-7 id="567" title="Form đăng ký Nhật Nam"]

BÀI VIẾT CÙNG CHUYÊN MỤC