Hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của ngân hàng thương mại Việt Nam

0
Trái phiếu

Hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu Ngân hàng Thương mại

Đầu tư kinh doanh trái phiếu ngân hàng thương mại

Đầu tư kinh doanh trái phiếu ngân hàng thương mại

Hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu là một trong những hoạt động quan trọng và có vai trò to lớn đối với ngân hàng thương mại (NHTM), thị trường trái phiếu (TTTP), và sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Bên cạnh đó, việc lựa chọn kênh đầu tư vào thị trường Trái phiếu trong bối cảnh nợ xấu tín dụng tăng cao, cạnh tranh gay gắt, lợi nhuận ngân hàng suy giảm,… như hiện nay sẽ là lựa chọn đúng đắn cho hệ thống NHTM Việt Nam.

Xem thêm: Ngân hàng đầu tư là gì?

Mục đích và đặc điểm cơ bản của hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của ngân hàng thương mại

Mục đích

  • Hỗ trợ nguồn thanh khoản và đảm bảo thanh toán
  • Tìm kiếm lợi nhuận
  • Đa dạng hóa danh mục đầu tư
  • Tạo sự đa dạng về mặt địa lý
  • Nâng cao năng lực cạnh tranh và thương hiệu ngân hàng
  • Là công cụ thực hiện chính sách quản lý tài sản của ngân hàng thương mại. 

Đặc điểm

Nguồn vốn được ngân hàng thương mại sử dụng để thực hiện hoạt động này của mình chủ yếu là nguồn vốn huy động từ tổ chức, dân cư và nền kinh tế; Tính linh hoạt và chủ động; Tính chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa cao.

Mô hình tổ chức hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của ngân hàng thương mại

Chia ra thành 03 bộ phận bao gồm: 

  • Bộ phận kinh doanh (Front Offices)
  • Bộ phận nghiên cứu & kiểm soát rủi ro (Middle offices) 
  • Bộ phận xử lý giao dịch (Back office). 

Theo đó, sự phân tách trách nhiệm độc lập giữa ba bộ phận này nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và hạn chế được các rủi ro cho ngân hàng.

Phân loại và chiến lược thực hiện các hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của ngân hàng thương mại

Nhìn chung nghiệp vụ đầu tư kinh doanh trái phiếu của ngân hàng thương mại bao gồm nhiều hoạt động cụ thể, có thể dựa theo các tiêu chí cơ bản khác nhau, tương ứng với các chiến lược đầu tư kinh doanh khác nhau để phân loại. Bên cạnh đó, sẽ có phương thức, điều kiện, loại hình và thị trường đầu tư kinh doanh tương ứng tùy thuộc vào từng chiến lược đầu tư kinh doanh khác nhau. Cụ thể: 

  • Phân loại theo chủ thể phát hành trái phiếu
  • Phân loại theo kỳ hạn, đáo hạn trái phiếu
  • Phân loại theo loại hình đầu tư kinh doanh của trái phiếu

Quy trình thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của ngân hàng thương mại

Về mặt cơ bản, bắt đầu quy trình thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của ngân hàng thương mại từ việc thiết lập mục tiêu. Sau đó, các nhà quản trị sẽ thực hiện các bước tiếp theo sau đây: 

  • Lựa chọn loại hình đầu tư kinh doanh
  • Chiến lược đầu tư kinh doanh
  • Lựa chọn loại hình trái phiếu
  • Cuối cùng là đo lường và định giá kết quả. 

Quản trị rủi ro trong hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của ngân hàng thương mại

Quản trị rủi ro trong hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của ngân hàng thương mại là gì?

Quản trị rủi ro trái phiếu ngân hàng thương mại

Quản trị rủi ro trái phiếu ngân hàng thương mại

Là quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, chính sách, biện pháp cổ liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu để nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động này của ngân hàng.

Các loại rủi ro

Bao gồm các loại rủi ro sau:

  • Rủi ro lãi suất
  • Rủi ro tín dụng
  • Rủi ro thanh khoản
  • Rủi ro hoạt động
  • Rủi ro tái đầu tư
  • Rủi ro lạm phát. 

Quản trị rủi ro

Là một chuỗi các hoạt động kết nối nhau tạo thành một quy trình mang tính hệ thống giúp ngân hàng kiểm soát các rủi ro một cách hiệu quả. 

Cụ thể:

Nhận diện rủi ro -> Phân tích rủi ro -> Kiểm soát rủi ro -> Giám sát

Theo đó, có thể kiểm soát rủi ro bằng cách lập ra các hạn mức phù hợp cho từng loại rủi ro, từng sản phẩm; từng bộ phận kinh doanh, từng cán bộ gia lịch; và sử dụng các công cụ để đo lường như: Thời gian đáo hạn bình quân (Duration); Độ lồi (Convexity); Price Value of a Basic Point (DVOI hay PVBP); VaR. 

Ngoài ra, để nhằm giúp ngân hàng biết được mức độ rủi ro trong các điều kiện bất thường của thị trường, ngân hàng thương mại cũng áp dụng các phân tích tình huống và phân tích thử nghiệm căng thẳng (stress test).

Điều kiện hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của ngân hàng thương mại Việt Nam

Điều kiện về thị trường trái phiếu Việt Nam

Nhìn chung, về quy mô và chất lượng thì thị trường trái phiếu đã có những bước tiến mạnh và trở thành kênh quan trọng trong việc huy động vốn cho ngân sách nhà nước và hỗ trợ hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của hệ thống ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, quy mô và phạm vi còn khá nhỏ, tính thanh khoản chưa cao; Chưa hoàn chỉnh về cấu trúc thị trường, hệ thống nhà đầu tư còn mỏng, chưa phát triển về các hạ tầng dịch vụ; Sản phẩm hàng hóa còn đơn điệu; Chủ yếu tập trung ở kỳ hạn ngắn – trung hạn, tổng dư nợ của thị trường trái phiếu doanh nghiệp còn khá khiêm tốn,…

Điều kiện về pháp lý cho hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của NHTM Việt Nam

Theo đó, để nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng thương mại khi tham gia hoạt động, khung pháp lý cho hoạt động của thị trường trái phiếu và cho hoạt động này của ngân hàng thương mại liên tục được ban hành và chỉnh sửa. Đối với các điều kiện thực hiện, nhìn chung, các ngân hàng thương mại đã đáp ứng hầu hết ngoại trừ việc một số ngân hàng thương mại không đáp ứng được tỷ lệ CAR, điều này khiến cho việc thực hiện một số nghiệp vụ liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của ngân hàng thương mại bị ảnh hưởng.

Điều kiện về vốn và chất lượng hoạt động ngân hàng

Tính đến Quý III/2013, tất cả ngân hàng thương mại đã đáp ứng đầy đủ yêu cầu về vốn điều lệ theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, có thể thấy rõ quy mô nhỏ bé của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam nếu so sánh Vietinbank giữ vị trí thứ nhất với số vốn điều lệ (32.661 tỷ VND) tại Việt Nam với các ngân hàng thương mại tại các quốc gia trong khu vực. 

Ngoài ra, một số ngân hàng còn yếu kém, quy mô nhỏ, vốn điều lệ thấp, nợ xấu cao vẫn tồn tại. Có những thời điểm một số ngân hàng thương mại không đảm bảo CAR trong thời gian qua. So với mặt bằng chung của thế giới thì cơ sở hạ tầng và trình độ công nghệ của các ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn còn yếu kém so. Do đó, hệ thống công nghệ thông tin chưa có khả năng hỗ trợ đầy đủ cho nghiệp vụ đầu tư kinh doanh trái phiếu. Về cơ bản, đội ngũ cán bộ trực tiếp đầu tư kinh doanh trái phiếu của các ngân hàng thương mại có khả năng đảm nhiệm thực hiện cơ bản các hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu. 

Ngoài ra, có thể được xây dựng trên cơ sở mô hình tổ chức bộ máy với các phòng ban chức năng được chuyên môn hóa cụ thể đến hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu tùy thuộc từng ngân hàng thương mại mô hình hoạt động đối với lĩnh vực này, hoặc có thể thuộc mô hình tổ chức với các phòng ban chức năng thực thi nhiều nhiệm vụ, trong đó có kiêm nhiệm luôn nhiệm vụ liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu. 

Bên cạnh đó, có nhiều ngân hàng thương mại Việt Nam chưa thực sự chú trọng phát triển đối với bộ phận nghiên cứu & kiểm soát rủi ro (Middle offices), thậm chí có ngân hàng chưa xây dựng các bộ phận này.

Đánh giá hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của NHTM dựa trên các chỉ tiêu nào?

Chỉ tiêu về lượng

Bao gồm:

  • Qũy đầu tư
  • Cơ cấu trái phiếu nắm giữ
  • Thu nhập
  • Mức độ đa dạng hóa các đối tác
  • Thị phần hoạt động

Chỉ tiêu về chất

  • Mô hình hoạt động
  • Quy trình hoạt động và các loại hình, chiến lược đầu tư kinh doanh trái phiếu
  • Phương pháp quản trị rủi ro
  • Thực hiện đúng quy trình quy định
  • Đảm bảo an toàn hiệu quả sử dụng vốn, hỗ trợ thanh khoản ngân hàng thương mại khi cần thiết đồng thời nâng cao tỷ suất sinh lời từ hoạt động trái phiếu.

Thực trạng hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của ngân hàng thương mại Việt Nam

Thực trạng hoạt động kinh doanh trái phiếu ngân hàng thương mại

Thực trạng hoạt động kinh doanh trái phiếu ngân hàng thương mại

Quy trình hoạt động và các loại hình, chiến lược đầu tư kinh doanh trái phiếu của các NHTM Việt Nam

Tại Việt Nam, hầu hết các NHTM hiện nay đều xây dựng và thực hiện quy trình hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của mình theo trình tự các bước như sau: 

  • Thiết lập mục tiêu
  • Lựa chọn loại hình đầu tư kinh doanh, chiến lược đầu tư kinh doanh, lựa chọn loại hình trái phiếu 
  • Cuối cùng là đo lường và định giá kết quả. 

Ở Việt Nam, các NHTM thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu với nhiều mục tiêu khác nhau. Tuy nhiên, việc phục vụ hỗ trợ cho việc quản lý kinh doanh nguồn vốn khả dụng của bản thân ngân hàng vẫn là mục tiêu chủ yếu, đảm bảo duy trì khả năng thanh toán toàn hệ thống là chính, bên cạnh đó là mục tiêu đem lại thu nhập cho ngân hàng. 

Theo thông thường, để có tính thanh khoản cao và có thể tham gia OMO tỷ lệ cao hơn theo quy định của ngân hàng nhà nước các ngân hàng sẽ chọn loại hình đầu tư kinh doanh tập trung đầu tư kinh doanh với tỷ trọng nhiều hơn đối với các loại trái phiếu ít rủi ro như trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh; Các loại trái phiếu có kỳ hạn ngắn và trung hạn. Theo đó, các ngân hàng sẽ có những chiến lược đầu tư kinh doanh phù hợp tương ứng với từng loại hình đầu tư kinh doanh trái phiếu.

Đánh giá theo các nhóm chỉ tiêu về lượng và chất đối với hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của ngân hàng thương mại Việt Nam

Đánh giá theo nhóm chỉ tiêu về lượng

Quy mô đầu tư kinh doanh trái phiếu: Trên cơ sở tổng tài sản ngân hàng và tỷ lệ nợ xấu từ hoạt động tín dụng có xu hướng tăng, các ngân hàng thương mại đã tăng quy mô đầu tư kinh doanh trái phiếu nếu xét tổng thể từ năm 2009 đến 2014. Bình quân tỷ trọng của số dư trái phiếu do các ngân hàng thương mại nắm giữ so với tổng tài sản trong giai đoạn hiện nay đều đạt khoảng 13%-15%/năm (so với năm 2009 tăng khoảng 3%-4%).

Chi tiết danh mục đầu tư kinh doanh trái phiếu

– Về tỷ trọng đầu tư kinh doanh theo chủ thể phát hành: 

Trên cơ sở đảm bảo an toàn vốn và thanh khoản, chủ yếu các NHTM chú trọng tập trung tỷ trọng đầu tư kinh doanh các loại trái phiếu ít rủi ro hơn so với các loại trái phiếu khác như tín phiếu ngân hàng nhà nước, trái phiếu Chính phủ hoặc được Chính phủ bảo lãnh. Tuy nhiên, tỷ trọng bình quân đầu tư vào các loại trái phiếu ít rủi ro này trong giai đoạn 2013 – 2014 bắt đầu có xu hướng giảm nhẹ, đạt tỷ lệ khoảng 70% tổng danh mục đầu tư trái phiếu (so với năm 2012 giảm khoảng 8%); đồng thời tăng tương ứng tỷ lệ đầu tư trái phiếu doanh nghiệp (lên mức khoảng 30% tổng danh mục trái phiếu). Có thể coi đây là chiến lược, từng bước đa dạng hóa danh mục đầu tư trái phiếu, từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh và tìm kiếm lợi nhuận.

– Về tỷ trọng đầu tư kinh doanh theo đồng tiền giao dịch trái phiếu: 

Trong các năm 2009 – 2010, để nhằm đa dạng hóa danh mục đầu tư và giảm bớt áp lực thừa nguồn vốn ngoại tệ trong hệ thống các NHTM đã thực hiện thí điểm đầu tư, kinh doanh trái phiếu bằng đồng USD với lãi suất hấp dẫn. Tuy nhiên, từ năm 2011 đến nay, do kho bạc nhà nước Việt Nam không tiếp tục phát hành trái phiếu ngoại tệ nữa, hoặc chưa được cấp phép từ ngân hàng nhà nước và các cơ quan quản lý liên quan nên các NHTM đã chấm dứt hoạt động đầu tư, kinh doanh đối với các loại trái phiếu này.

– Về tỷ trọng đầu tư kinh doanh theo kỳ hạn đáo hạn trái phiếu: 

Tỷ trọng trái phiếu có kỳ hạn ngắn – trung hạn thường duy trì lớn nhất (kỳ hạn < 1 năm được duy trì 40%- 45%, tỷ trọng đầu tư trái phiếu trung hạn (1- 5 năm) khoảng 50%- 55%) và ít tập trung đầu tư kỳ hạn > 5 năm để nhằm đảm bảo an toàn thanh khoản toàn hệ thống mọi thời điểm.

– Về tỷ trọng đầu tư kinh doanh theo mục đích đầu tư: 

Loại hình kinh doanh (Trading) và loại hình trái phiếu giữ đến ngày đáo hạn (HTM), đã có xu hướng tăng về tỷ trọng bình quân. Đồng thời, giảm dần tỷ trọng đối với loại hình sẵn sàng để bán AFS. Cụ thể, bình quân tỷ trọng trái phiếu kinh doanh tăng mạnh đạt trên 6% tổng danh mục đầu tư trái phiếu (so với 2009 tăng 25 lần). Bên cạnh đó, đối với trái phiếu giữ đến ngày đáo hạn (HTM) có tỷ trọng đạt mức trên 18% tổng danh mục đầu tư trái phiếu (so với năm 2009 tăng 1.2 lần). Qua đó có thể thấy, các NHTM đã tích cực thực hiện chiến lược chủ động, sẵn sàng mua bán trái phiếu trên thị trường, cân đối hợp lý hơn giữa các loại hình đầu tư.

Doanh số hoạt động

– Đối với các giao dịch tại ngân hàng nhà nước: 

Nhìn chung, trong năm 2014 doanh số hoạt động đấu thầu qua kênh OMO với ngân hàng nhà nước (NHNN) (giao dịch mua bán kỳ hạn, giao dịch mua hẳn) của các NHTM có xu hướng tăng trở lại (so với năm 2012 gấp hơn 3 lần và gấp 1.9 lần so với năm 2009). Lý do của sự biến động tăng giảm này, phụ thuộc nhiều vào chính sách tiền tệ trong từng giai đoạn của NHNN.

– Đối với các giao dịch tại HNX: 

Trên thị trường sơ cấp, doanh số giao dịch đang có xu hướng giảm dần và tăng dần trên thị trường thứ cấp (biến động khoảng 35% tính từ 2010 đến nay). Điều này đã thể hiện rõ, sự chủ động trong hoạt động này của các ngân hàng không chỉ giới hạn đầu tư trên thị trường sơ cấp và nắm giữ đến ngày đáo hạn mà còn đang theo hướng tăng cường mua bán trên thị trường thứ cấp.

– Tình hình đa dạng hóa đối tác: 

Cùng với sự phát triển của thị trường trái phiếu, đặc biệt là hệ thống giao dịch trái phiếu chuyên biệt ra đời. Thì từ năm 2009 đến nay, các NHTM đã chủ động trực tiếp liên hệ với tất cả các đối tác được phép giao dịch, ngoài công ty chứng khoán thuộc hệ thống của mình và thực hiện giao dịch mua bán thứ cấp.

– Tình hình thu nhập từ hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu: 

Giai đoạn 2009- 2011, do các NHTM vẫn tập trung vào hoạt động truyền thống là tín dụng nên tình hình thu nhập bình quân từ hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu và tỷ trọng của nó, trong tổng thu có xu hướng giảm. Tuy nhiên, từ 2011 đến nay, cùng với việc tăng trưởng quy mô đầu tư kinh doanh trái phiếu đã làm mức bình quân tỷ trọng thu từ hoạt động này so với tổng thu của các NHTM tăng (năm 2014 mức tăng là hơn 5% so với năm 2011 và so với năm 2009 là hơn 1%).

Đánh giá theo nhóm chỉ tiêu về chất

– Phương pháp quản trị rủi ro trong hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu

Trong hoạt động này, các chiến lược thực hiện, quy trình thực hiện cũng như phương pháp quản trị rủi ro vẫn còn đơn giản và nhiều bất cập, tập trung chủ yếu vào vấn đề đảm bảo thanh khoản cho hệ thống. Ở nhiều NHTM, việc quản lý rủi ro mới chỉ dừng lại ở việc kiểm soát việc tuân thủ quy trình tác nghiệp do bộ phận kiểm soát nội bộ thực hiện, và không chú trọng vào công tác đánh giá, đo lường rủi ro, đề xuất giải pháp hạn chế rủi ro. 

Mô hình tổ chức hợp lý cho bộ phận kiểm soát rủi ro chưa có nhiều NHTM xây dựng. Bên cạnh đó, số lượng cán bộ thuộc bộ phận này vừa ít, vừa phải kiêm nhiệm nhiều vị trí trong NHTM và không quy định rõ ràng, thống nhất đối với các bước trong quy trình phát hiện, giám sát và xử lý rủi ro.

– Tình hình nợ quá hạn

Nhìn chung trong thời gian qua, các NHTM luôn thực hiện chiến lược đầu tư kinh doanh, chủ yếu là trái phiếu độ rủi ro thấp. Do đó, các NHTM hầu như không có tình trạng bị nợ quá hạn trong lĩnh vực này (nếu loại trừ trái phiếu do Vinashin phát hành bị quá hạn mà các NHTM nắm giữ).

– Tỷ suất sinh lời

Nhìn chung, tỷ suất sinh lời trong giai đoạn 2009 – 2014 có xu hướng giảm.

Cụ thể, so với năm 2009 thì tỷ suất sinh lời năm 2014 đã giảm hơn 32%. Đặc biệt, xu hướng giảm này tỷ lệ nghịch với xu hướng tăng dần của quy mô đầu tư trái phiếu trong giai đoạn 2011- 2014. Điều này phản ánh về mặt chất lượng thì hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của các NHTM là giảm.

Đánh giá thực trạng hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của NHTM Việt Nam

Kết quả đạt được

– Quy mô đầu tư kinh doanh trái phiếu do các NHTM thực hiện có xu hướng tăng. Đồng thời ngày càng phát huy vai trò trong quản lý nguồn vốn khả dụng và tính thanh khoản của toàn hệ thống được an toàn và hiệu quả.

Hạn chế và nguyên nhân

Về hạn chế

Đối với nghiệp vụ này, nguồn vốn vẫn còn khiêm tốn, tỷ suất sinh lời có xu hướng giảm. Phục vụ quản lý kinh doanh nguồn vốn khả dụng là chủ yếu, duy trì khả năng thanh toán mà chưa phát triển mạnh hoạt động tự doanh. Chiến lược đa dạng hóa danh mục trái phiếu bằng đồng ngoại tệ chưa được thực hiện, đồng thời đối các loại trái phiếu có kỳ hạn ngắn hạn có xu hướng tập trung vào nhiều hơn. Chưa thiết lập chặt chẽ hệ thống quản trị rủi ro trong hoạt động này. Hệ thống công nghệ thông tin vẫn chưa thực sự ổn định và tối ưu hóa. Việc triển khai được những sản phẩm, hoạt động mới chưa được phát triển.

 – Bên cạnh đó còn có một số tồn tại khác như: Về hợp đồng giao dịch mua-bán, repo trái phiếu; Rủi ro về thời gian lưu ký,…

Về nguyên nhân

Nguyên nhân khách quan

Tại Việt Nam, thực trạng hoạt động thị trường trái phiếu vẫn còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng từ sự biến động của nền kinh tế trong và ngoài nước; Chưa hoàn thiện về hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách; Mức độ cạnh tranh trong lĩnh vực này ngày càng khốc liệt và gay gắt hơn.

Nguyên nhân chủ quan

Cơ cấu sở hữu ngân hàng chưa phù hợp; Tỷ lệ nợ xấu tín dụng có xu hướng tăng; Mô hình hoạt động chưa hoàn thiện; Vai trò, vị trí của đầu tư và kinh doanh trái phiếu chưa được nhận thức đầy đủ; Chưa ban hành đầy đủ hệ thống các văn bản pháp lý liên quan NHTM; Cơ sở hạ tầng kỹ thuật, công nghệ còn hạn chế; quản lý rủi ro chưa thực sự hiệu quả.

Giải pháp phát triển hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu của NHTM Việt Nam

Giải pháp về quản trị rủi ro hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu, giúp NHTM kiểm soát rủi ro hiệu quả bằng cách xây dựng và tăng cường thực hiện quy trình quản trị rủi ro mang tính hệ thống. Cụ thể:

Nhận diện rủi ro

Để có thể xác định các loại rủi ro cụ thể hơn NHTM có thể sử dụng hồ sơ rủi ro. Theo đó, để có thể nhận biết các nguy cơ rủi ro có thể xảy ra thì việc xây dựng hệ thống cảnh báo sớm rủi ro là điều cần thiết đối với NHTM, từ đó chủ động thực hiện các chiến lược quản lý rủi ro thích hợp.

Phân tích rủi ro

Cán bộ quản trị rủi ro sẽ đánh giá về khả năng hay xác suất rủi ro đó xảy ra và mức độ tác động trong lĩnh vực đầu tư kinh doanh trái phiếu dựa trên các rủi ro liệt kê được nhận diện ở trên. Sau đó sẽ phân loại, xếp hạng từng loại rủi ro để có những biện pháp xử lý phù hợp.

Kiểm soát rủi ro

Việc thiết lập một hệ thống kiểm soát rủi ro, được thể hiện trên một số nội dung cơ bản về: Phân tích tình huống và phân tích thử nghiệm căng thẳng (stress test); Lập ra các hạn mức phù hợp; áp dụng các công cụ Duration, Convexity; PV01, VaR,… Xây dựng cơ chế trao đổi thông tin; Xây dựng vách ngăn mềm ngăn chặn chia sẻ thông tin.

Giám sát và xử lý rủi ro

Trước hết, NHTM cần phân tách trách nhiệm rõ ràng cụ thể, giữa bộ phận kinh doanh và bộ phận kiểm soát rủi ro và bộ phận xử lý giao dịch có vai trò hết sức quan trọng. 

Các biện pháp xử lý rủi ro: NHTM thực hiện trích lập, phân bổ và sử dụng quỹ xử lý rủi ro chung, theo quy định của pháp luật và chính sách của HĐQT phê duyệt. Ngoài ra, cần chú trọng việc thực hiện quy trình quản trị rủi ro trong công tác giám sát.

Giải pháp về đa dạng hóa các nghiệp vụ, sản phẩm mới. Trên cơ sở thực hiện tốt các nghiệp vụ, sản phẩm truyền thống hiện tại, các NHTM Việt Nam cũng cần tiến hành nghiên cứu, phân tích và thực hiện các nghiệp vụ, sản phẩm mới liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu như Hợp đồng trái phiếu tương lai; Hợp đồng quyền chọn trái phiếu; Trái phiếu Zero coupon bond; Trái phiếu lãi suất thả nổi,…

Kết luận

Trên đây là những thông tin về hoạt động đầu tư kinh doanh trái phiếu tại Việt Nam. Hy vọng bài viết sẽ đem lại cho bạn những kiến thức hữu ích. Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết.

Tôi là Lan Anh - Biên tập viên phân tích tài chính, với 5 năm tìm hiểu về thị trường tài chính cũng như đầu tư. Rất hy vọng những kiến thức mà tôi học hỏi và tích lũy được có thể hỗ trợ, cung cấp đến các bạn những thông tin chính xác, tư vấn hỗ trợ xử lý các dịch vụ tài chính, đầu tư hiệu quả nhất!

dang-ky-dau-tu-nhat-nam

ĐĂNG KÝ TƯ VẤN MIỄN PHÍ NGAY

[contact-form-7 id="567" title="Form đăng ký Nhật Nam"]

BÀI VIẾT CÙNG CHUYÊN MỤC