Bán phá giá là gì? Một số câu hỏi liên quan đến bán phá giá

0
Tài chính

Bán phá giá là gì?

Khái niệm về bán phá giá

Khái niệm về bán phá giá

Bán phá giá là một khái niệm cơ bản của thương mại quốc tế. Các sản phẩm được bán trên thị trường với giá thấp hơn giá thành sản xuất được coi là bán phá giá và có thể phải chịu các cuộc điều tra bị trừng phạt. Bán phá giá là tổng hợp các biện pháp nhằm hạ giá một số mặt hàng xuất khẩu nhằm cạnh tranh với các khách hàng khác trên thị trường thế giới. Mục tiêu là để đánh bại các đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường nước ngoài, hoặc kiếm ngoại tệ khẩn cấp, đôi khi ngay cả cho mục đích chính trị.

Phân loại bán phá giá

Bán phá giá được chia thành 2 loại sau đây: 

Bán phá giá chớp nhoáng hay bán phá giá độc quyền

Đó là cách tạm thời bán giá xuất khẩu thấp hơn giá nội địa để tăng sức cạnh tranh và loại bỏ đối thủ. Khi đạt được mục tiêu, giá cả tăng lên mức giá độc quyền. Bán phá giá độc quyền là một hành vi về bản chất của nó vi phạm nguyên tắc cạnh tranh, đó là hành vi độc quyền hóa. Bán phá giá độc quyền phá hủy sự cạnh tranh và là nguyên nhân trực tiếp gây ra bất ổn kinh tế.

Phá giá độc quyền được chia thành 2 loại: 

  • Phá giá chiến lược: Là hành vi bán phá giá nằm trong một chiến lược cạnh tranh tổng thể của nước xuất khẩu
  • Phá giá cướp đoạt: Là hành vi định giá thấp nhằm mục đích đẩy đối thủ cạnh tranh vào tình trạng phá sản để giành vị trí độc quyền tại nước nhập khẩu.

Bán phá giá không độc quyền

Bán phá giá không độc quyền được thể hiện ở 2 loại hình thức sau:

  • Bán phá giá bền vững hay còn gọi là chính sách phân biệt về giá cả bán phá giá bền vững là xu hướng bán sản phẩm trên thị trường thế giới với giá thấp hơn giá nội địa nhằm cực đại lợi nhuận của nhà sản xuất, xuất khẩu.
  • Bán phá giá không thường xuyên (Phá giá chu kì): Là bán giá xuất khẩu thấp để tránh rủi ro của thị trường thế giới và giải quyết vấn đề khó khăn về tài chính mà công ty đang cần giải quyết gấp. Đây là hình thức phá giá mà nhiều doanh nghiệp sử dụng nhằm giải quyết hậu quả của việc sản xuất quá dư thừa loại hàng hóa đó.

Ngoài ra còn có thêm 2 loại bán phá giá: 

  • Bán phá giá đảo ngược hay bán phá giá mở rộng thị trường: Là định giá đối với thị trường nước ngoài cao hơn so với trong nước. Đây là việc nhà sản xuất bán hàng hóa với giá cao ở trong nước nhằm hỗ trợ cho giá thấp ở thị trường xuất khẩu.
  • Bán phá giá qua lại: Đây là loại bán phá giá tại ra sự chênh lệch về giá (khi hàng hóa trong nước và nước ngoài không có sự khác biệt về giá), từ đó thương mại quốc tế sẽ xảy ra.

Mục đích bán phá giá

Bán phá giá được xem là biện pháp được thực hiện cho các mục đích:

  • Biện pháp ngắn hạn để đối phó với tình hình suy thoái trong nước khi sản lượng một hàng hóa nào đó dư ra và được bán tháo ra nước ngoài
  • Một chiến lược dài hạn được áp dụng nhằm mục đích xâm nhập vào thị trường xuất khẩu hoặc đẩy đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị trường.

Thế nhưng dù vận dụng với mục đích nào thì việc bán phá giá được xem là hình thức buôn bán không công bằng và bị các hiệp định thương mại cấm áp dụng, đấy chính là lý do mà nhiều quy định về chống bán phá giá ra đời. 

Nguyên nhân dẫn đến bán phá giá

Sẽ có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng chống bán phá giá của nhà sản xuất. Nhiều trường hợp việc bán phá giá có mục đích không lành mạnh nhằm đạt được những lợi ích nhất định như: 

– Bán phá giá để loại bỏ các đối thủ cạnh tranh trên thị trường từ đó chiếm thế độc quyền;

– Bán giá thấp tại thị trường nước nhập khẩu để chiếm lĩnh thị phần;

– Bán giá thấp để thu ngoại tệ mạnh…

Nhiều khi việc bán phá giá là việc không mong muốn do nhà sản xuất, xuất khẩu không thể bán được hàng, cung vượt quá cầu, sản xuất bị trì trệ, các sản phẩm lưu kho lâu ngày có thể bị hỏng, nên đành phải bán tháo hàng hóa để thu hồi vốn. 

Theo quy định của Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO) và pháp luật các nước về vấn đề chống bán phá giá, thuế chống bán phá giá có thể bị áp đặt mà không quan tâm đến lý do vì sao nhà sản xuất bán phá giá.

Quy định của pháp luật về chống bán phá giá

Quy định của pháp luật về chống bán phá giá

Quy định của pháp luật về chống bán phá giá

Theo điều VI GATT 1994 và Hiệp định về việc Thi hành Điều VI GATT 1994 có quy định về việc chống bán phá giá ADP. 

Hiệp định về việc chống bán phá giá được quy định về các nhóm vấn đề cụ thể như sau: 

– Quy định về nội dung: Bao gồm các điều khoản chi tiết về cách thức, tiêu chí xác định việc bán phá giá, thiệt hại, mối quan hệ nhân quả giữa việc bán phá giá và thiệt hại. 

– Các quy định về thủ tục: Bao gồm các điều khoản liên quan đến thủ tục điều tra áp dụng thuế chống bán phá giá như thời hạn điều tra, nội dung đơn kiện, thông báo, quyền tố tụng của các bên liên quan, trình tự áp dụng các biện pháp tạm thời, quyền khiếu kiện,…

– Các quy định về thủ tục giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia thành viên liên quan đến thuế chống phá giá: Quy định tại điều 17 ADP, gồm các quy tắc áp dụng cho việc giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia thành viên WTO liên quan đến biện pháp áp đặt thuế chống bán phá giá của một quốc gia thành viên.

– Các quy định về thẩm quyền của Ủy ban về thực tiễn chống bán phá giá (Committee on Anti-dumping Practices): Bao gồm các quy định về thành viên, chức năng và hoạt động của Uỷ ban trong quá trình điều hành về các biện pháp chống bán phá giá thực hiện tại các quốc gia thành viên.

Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam 

Theo pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu tại Việt Nam số 20/2004/PL-UBTVQH11 có hiệu lực từ ngày 1/10/2004. Pháp lệnh này quy định các biện pháp cụ thể mà chính phủ Việt Nam có thể áp dụng khi có hành vi bán phá giá từ phía đối tác nước ngoài vào thị trường Việt Nam.

Theo pháp lệnh này, mọi hàng hóa xuất phát từ nước ngoài hoặc vùng lãnh thổ coi là bán phá giá khi nhập khẩu vào Việt Nam, nếu hàng hóa đó được bán với giá thấp hơn giá thông thường theo quy định: 

  • Biên độ phá giá là mức chênh lệch có thể tính được giữa giá thông thường của hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam và giá xuất khẩu của hàng hóa đó vào Việt Nam.
  • Biên độ bán phá giá không đáng kể có nghĩa là biên độ bán phá giá không vượt quá 2% giá xuất khẩu hàng hóa vào Việt Nam.

Giá thông thường đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam là giá có thể so sánh đối với hàng hóa tương tự bán trên thị trường nội địa của nước, vùng lãnh thổ xuất khẩu trong điều kiện thương mại bình thường. Khi hàng hóa tương tự không được bán trên thị trường nội địa của nước, vùng lãnh thổ xuất khẩu hoặc hàng hóa tương tự được bán trên thị trường nội địa của nước hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu, nhưng với số lượng và số lượng nếu số lượng hoặc giá trị hàng hóa không đáng kể thì giá thông thường của hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam được xác định theo một trong hai cách:

  • Giá có thể so sánh được của hàng hóa tương tự của nước hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu đang được bán trên thị trường một nước thứ ba trong các điều kiện thương mại thông thường
  • Giá thành hợp lý của hàng hoá cộng thêm các chi phí hợp lý khác và lợi nhuận ở mức hợp lý, xét theo từng công đoạn từ sản xuất đến lưu thông trên thị trường của nước hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu hoặc nước thứ ba.

Và biện pháp chống bán phá giá chỉ được áp dụng đối với hàng hóa bán phá giá vào Việt Nam khi có 2 điều kiện sau đây: 

  • Hàng hoá bị bán phá giá vào Việt Nam và biên độ bán phá giá phải được xác định cụ thể
  • Việc bán phá giá hàng hoá quy định tại khoản 1 Điều này là nguyên nhân gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước.

Các biện pháp chống bán phá giá

Dùng thuế chống bán phá giá

Thuế chống bán phá giá trong tiếng Anh gọi là Anti-dumping duties, là khoản thuế bổ sung (ngoài thuế nhập khẩu thông thường) nhằm loại bỏ những thiệt hại do hàng phá giá gây ra.

Dùng thuế chống bán phá giá là phương pháp được sử dụng rộng rãi, áp dụng đối với sản phẩm bị điều tra và kết luận là bán phá giá vào nước nhập khẩu. 

Thuế chống bán phá giá được áp dụng như sau: 

  • Về nguyên tắc, thuế bán phá giá dùng để áp dụng cho những hàng hóa bán phá giá, được tính riêng cho từng nhà sản xuất. 
  • Thuế chống bán phá giá được thực hiện khi tiến hành điều tra, căn cứ vào kết luận điều tra theo quy định pháp luật, trường hợp nhà sản xuất không nằm trong cuộc điều tra thì mức thuế cho họ không cao hơn bên phá giá nằm trong diện Điều tra. 
  • Thuế chống bán phá giá chỉ được đánh ở một mức độ thích hợp để hạn chế hoặc ngăn ngừa thiệt hại lớn cho ngành sản xuất trong nước và không gây thiệt hại về kinh tế và xã hội.
  • Thời gian áp dụng để áp dụng thuế chống bán phá giá không được vượt quá 5 năm kể từ khi quyết định có hiệu lực, nếu cần thiết hoặc bổ sung, thuế chống bán phá giá có thể được gia hạn.
  • Hiệu lực áp thuế: Sau thời điểm ban hành quyết định, việc áp thuế chỉ có hiệu lực với tất cả hàng hóa liên quan đến nhập khẩu từ nước bị kiện. 

Biện pháp tự vệ 

Biện pháp tự vệ là việc hạn chế hoặc tạm ngừng nhập khẩu một hoặc nhiều mặt hàng khi giá nhập khẩu đột ngột tăng nhanh. Đây là một phương thức an toàn, bình ổn thị trường cho các nước nhập khẩu.

Biện pháp tự vệ không áp dụng với sở hữu trí tuệ, dịch vụ hay đầu tư mà chỉ áp dụng đối với hàng hóa. 

Mỗi nước nhập khẩu có thể áp dụng các biện pháp tự vệ khi đã tiến hành điều tra và chứng minh được hàng hóa phá giá với các điều kiện sau: 

  • Hàng hóa liên quan được nhập khẩu tăng đột biến về số lượng (diễn ra nhanh, đột ngột và tức thời).
  • Ngành sản xuất sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp với hàng hóa đó bị thiệt hại nghiêm trọng.
  • Sự gia tăng tuyệt đối (lượng nhập khẩu tăng gấp 2, 3 lần) hoặc tương đối so với sản xuất trong nước (cùng thời điểm đó lượng hàng sản xuất trong nước giảm mạnh nhưng lượng hàng nhập khẩu lại hầu như không tăng).

Một số câu hỏi liên quan đến bán phá giá

Thuế chống bán phá giá là gì? 

Thuế chống bán phá giá là loại thuế nhập khẩu thông thường do cơ quan có thẩm quyền của các nước nhập khẩu ban hành, đánh vào các sản phẩm nước ngoài bị bán phá giá vào nước nhập khẩu. Đây là loại thuế nhằm chống bán phá giá và loại bỏ những thiệt hại gây ra thông qua hàng nhập khẩu bán phá giá.

Thời hạn áp dụng thuế chống bán phá giá 

Thời hạn áp dụng thuế chống bán phá giá không quá năm, kể từ ngày quyết định áp dụng có hiệu lực. Trường hợp cần thiết, quyết định áp dụng thuế chống bán phá giá có thể được gia hạn.

Điều kiện áp dụng thuế chống bán phá giá 

  • Hàng hóa nhập khẩu bán phá giá tại Việt Nam và biên độ bán phá giá phải được xác định cụ thể
  • Việc bán phá giá hàng hóa là nguyên nhân gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước hoặc ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong nước.

Nguyên tắc áp dụng thuế chống bán phá giá 

  • Thuế chống bán phá giá chỉ được áp dụng ở mức độ cần thiết, hợp lý nhằm ngăn ngừa hoặc hạn chế thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước;
  • Việc áp dụng thuế chống bán phá giá được thực hiện khi đã tiến hành điều tra và phải căn cứ vào kết luận điều tra theo quy định của pháp luật; 
  • Thuế chống bán phá giá được áp dụng đối với hàng hóa bán phá giá vào Việt Nam;
  • Việc áp dụng thuế chống bán phá giá không được gây thiệt hại đến lợi ích kinh tế – xã hội trong nước.

Biên độ bán phá giá là gì?

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 2 Pháp lệnh Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam năm 2004, biên độ bán phá giá là khoảng chênh lệch có thể tính được giữa giá thông thường của hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam so với giá xuất khẩu hàng hóa đó vào Việt Nam.

Bán phá giá hối đoái là gì?

Bán phá giá hối đoái hay phá giá tiền tệ, trong tiếng anh là Currency Devaluation. Đây là biện pháp chủ động làm giảm giá trị đồng nội tệ so với ngoại tệ, có nghĩa là làm cho tỷ giá hối đoái trên danh nghĩa tăng lên. 

Mục đích của phá giá tiền tệ:

  • Kích thích hoạt động xuất khẩu, các hoạt động kinh tế, dịch vụ đối ngoại có thu ngoại tệ, đồng thời hạn chế nhập khẩu và các hoạt động đối ngoại khác phải chi ngoại tệ. Từ đó góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và làm cho tỷ giá hối đoái danh nghĩa tăng lên.
  • Khuyến khích nhập khẩu vốn, kích thích các dòng ngoại tệ kiều hối, đồng thời hạn chế các dòng vốn chảy ra nước ngoài (xuất khẩu vốn) nhằm mục đích tăng cung ngoại tệ làm cho tỷ giá hối đoái danh nghĩa tăng lên.

Một khi chính sách phá giá tiền tệ đưa ra sẽ có sự tác động theo 2 hướng như sau:

  • Vì muốn phá giá tiền tệ, ngân hàng trung ương phải bỏ nội tệ ra mua ngoại tệ. Nghĩa là phát hành thêm tiền vào nền kinh tế, làm tăng lượng tiền mạnh. Cung tiền được tăng theo cấp số nhân.
  • Khi phá giá tiền tệ trong trường hợp các yếu tố khác không đổi thì sức cạnh tranh của hàng trong nước tăng lên. Xuất khẩu tăng, nhập khẩu giảm, do đó xuất khẩu ròng tăng, dẫn đến tăng tổng cầu, có sự dịch chuyển và những thay đổi như tăng sản lượng, thu nhập và công ăn việc làm.

Điều kiện để áp đặt thuế chống bán phá giá? 

Thuế chống bán phá giá chỉ được áp dụng khi xác định được đủ 3 điều kiện sau đây:

– Hàng nhập khẩu bị bán phá giá

– Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu bị thiệt hại đáng kể

– Có mối quan hệ nhân quả giữa việc hàng nhập khẩu bán phá giá và thiệt hại nói trên

Trong thực tiễn, hành vi cạnh tranh không lành mạnh diễn ra rất phổ biến, và việc bán phá giá là một trong những hành vi đó. Bán phá giá được hiểu là hàng hóa được xuất khẩu từ nước này sang nước khác với giá thấp hơn giá của hàng hóa đó ở thị trường nước xuất khẩu. 

Thuế chống bán phá giá theo quy định của khoản 5 Điều 4, Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2016 là thuế nhập khẩu bổ sung được đánh vào hàng hóa bán phá giá nhập khẩu vào Việt Nam gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước hoặc ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong nước.

Về điều kiện để áp dụng thuế chống bán phá giá được quy định tại khoản 1 Điều 12 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2016:

Điều kiện áp dụng thuế chống bán phá giá

a, Hàng hóa nhập khẩu bán phá giá tại Việt Nam và biên độ bán phá giá phải được xác định cụ thể

b, Việc bán phá giá hàng hóa là nguyên nhân gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước hoặc ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong nước.

Còn theo quy định của Hiệp hội chống bán phá giá (ADA) chi tiết hóa điều VI GATT điều kiện để áp dụng biện pháp chống bán phá giá (có thể là thuế chống bán phá giá) bao gồm 3 điều kiện sau: 

Thứ nhất, phải có hành vi bán phá giá và biên độ bán phá giá phải lớn hơn hoặc bằng 2%. Biên độ bán phá giá sẽ được tính bằng giá thông thường( giá bán của sản phẩm tại thị trường nước xuất khẩu hoặc giá bán của sản phẩm tương tự từ thị trường nước xuất khẩu sang thị trường của nước thứ ba hoặc giá được tính trên tổng chi phí sản xuất) trừ đi giá xuất khẩu (giá trên hợp đồng hoặc giá cho người mua độc lập đầu tiên) sau đó chia cho giá xuất khẩu .

Thứ hai, ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại đáng kể. Yếu tố thiệt hại thì đại diện các nhà sản xuất trong nước phải chứng minh.

Thứ ba, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi bán phá giá và thiệt hại đối với ngành sản xuất trong nước.

Lời kết 

Vậy trên đây là những thông tin tìm hiểu về bán phá giá, cũng như các biện pháp chống bán phá giá được áp dụng trong thương mại. Hy vọng bài viết sẽ cung cấp cho bạn thêm kiến thức về tài chính và hiểu hơn về thị trường. 

Tôi là Phương Anh - Một biên tập viên chuyên về lĩnh vực tài chính, với nhiều năm tìm hiểu về thị trường chứng khoán cũng như đầu tư, tôi hy vọng những kiến thức mà tôi tích góp được có thể hỗ trợ bạn phần nào trong công việc đầu tư của mình.

dang-ky-dau-tu-nhat-nam

ĐĂNG KÝ TƯ VẤN MIỄN PHÍ NGAY

[contact-form-7 id="567" title="Form đăng ký Nhật Nam"]

BÀI VIẾT CÙNG CHUYÊN MỤC