Tổng quan về Quỹ tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund) – IMF

0
Tài chính

Quỹ Tiền tệ Quốc tế được mô tả như “Một tổ chức của 189 quốc gia”, đây là một tổ chức quốc tế nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn cầu và ổn định tài chính, khuyến khích thương mại quốc tế và xóa đói giảm nghèo. Để hiểu rõ về vai trò của IMF cũng như mối quan hệ của tổ chức này và Việt Nam ra sao, mời bạn đọc cùng theo dõi bài viết dưới đây.

Quỹ Tiền tệ Quốc tế – IMF là gì?

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (International Monetary Fund – IMF) là một tổ chức quốc tế giám sát hệ thống tài chính toàn cầu bằng cách theo dõi tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán, cũng như khi có yêu cầu sẽ hỗ trợ kỹ thuật và giúp đỡ tài chính. Trụ sở chính đặt ở Washington D.C, thủ đô của Hoa Kỳ.

Tổ chức này được mô tả như “Một tổ chức của 189 quốc gia” thực hiện việc “nuôi dưỡng” tập đoàn tiền tệ toàn cầu, thiết lập tài chính an toàn. Từ đó tạo ra cho thương mại quốc tế những điều kiện thuận lợi, đẩy mạnh việc làm và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn cầu cũng như giảm bớt đói nghèo trên toàn thế giới. IMF do 189 quốc gia thành viên điều hành và chịu trách nhiệm trước 189 quốc gia này.

Logo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế

Logo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế

Lịch sử hình thành và phát triển của Quỹ Tiền tệ Quốc tế

Cuối chiến tranh thế giới thứ hai, các nước đồng minh bắt đầu nghiên cứu việc trợ giúp các nước phục hồi kinh tế sau chiến tranh. Theo đó vào tháng 7/1944 Hội nghị tiền tệ và tài chính của Liên Hiệp Quốc được triệu tập ở Bretton Woods, New Hampshire, Hoa Kỳ với sự tham gia của 44 quốc gia (trong đó có Liên Xô cũ) đã tìm cách xây dựng khuôn khổ hợp tác kinh tế quốc tế và tránh tình trạng phá giá tiền tệ cạnh tranh đã góp phần vào cuộc Đại suy thoái những năm 1930 lặp lại.

Kết quả của hội nghị là Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã được thành lập. Ngày 27/12/1945, điều lệ thành lập IMF đã được 29 nước ký kết. IMF bắt đầu hoạt động vào ngày 1/3/1947 và tiến hành cho vay khoản đầu tiên ngày 8/5/1947.

Quỹ tài chính của IMF được xây dựng thông qua phí thành viên, được gọi là hạn ngạch. Số tiền mà mỗi quốc gia thành viên trả cho một hạn ngạch sẽ dựa trên quy mô kinh tế của quốc gia đó vì vậy số tiền mà các nền kinh tế lớn phải trả sẽ nhiều hơn. Như vậy, nguồn vốn hoạt động của quỹ do các nước thành viên đóng góp là chủ yếu. IMF đã xây dựng một hạn mức cho vay và hạn mức đóng góp với các nước thành viên. Theo đó, mỗi nước sẽ có số phiếu biểu quyết tùy thuộc vào mức độ đóng góp cho IMF của nước đó. Trong IMF hiện nay, các nước thành viên có cổ phần lớn nhất là Mỹ (17,46%), Nhật Bản (6,26%), Đức (6,11%), Anh (5,05%) và Pháp (5,05%).

Trải qua các thời kỳ biến chuyển của nền kinh tế và hệ thống tiền tệ thế giới, hai hướng hoạt động mà IMF cố gắng phát triển là: ổn định các tỷ giá hối đoái và đấu tranh chống những biện pháp hạn chế và phân biệt đối xử. 

Năm 1972, các tỷ giá hối đoái được thả nổi theo Hiệp định Jamaica. Điều này đã khiến cho tỷ giá đồng tiền của các nước thành viên của Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) không duy trì theo đồng đôla nữa mà mỗi nước tự do quy định, tuyên bố hay không tuyên bố tỷ giá đồng tiền của mình. Lúc này, để tăng thêm mức cung về phương tiện thanh toán quốc tế thì vàng đã bị gạt ra khỏi hệ thống tiền tệ và được thay thế bằng quyền rút vốn đặc biệt (special drawing rights – SDR).

Trải qua gần 80 năm hình thành và phát triển, Quỹ tiền tệ Quốc tế đã có 13 tổng giám đốc điều hành. Theo đó, bạn đọc có thể tìm hiểu rõ về các Tổng Giám đốc điều hành IMF qua các thời kỳ qua bảng tổng hợp dưới đây:

Tổng Giám đốc IMF Quốc tịch Thời gian lãnh đạo
Kristalina Georgieva Bulgaria 1/10/2019 đến nay
Christine Lagarde Pháp 5/07/2011 –30/9/2019
John Lipsky Hoa Kỳ 18/05/2011 – 4/07/2011
Dominique Strauss-Kahn Pháp 1/11/2007 – 18/05/2011
Rodrigo Rato Tây Ban Nha 7/06/2004 – 31/10/2007
Horst Köhler Đức 1/05/2000 – 4/03/2004
Michel Camdessus Pháp 16/01/1987 – 14/02/2000
Jacques de Larosière Pháp 18/06/1978 – 15/01/1987
Johan Witteveen Hà Lan 1/09/1973 – 18/06/1978
Pierre-Paul Schweitzer Pháp 1/09/1963 – 31/08/1973
Per Jacobsson Thụy Điển 21/11/1956 – 5/05/1963
Ivar Rooth Thụy Điển 3/08/1951 – 3/10/1956
Camille Gutt Bỉ 6/05/1946 – 5/05/1951
Bà Kristalina Georgieva - Người đứng đầu Quỹ tiền tệ Quốc Tế - IMF

Bà Kristalina Georgieva – Người đứng đầu Quỹ tiền tệ Quốc Tế – IMF

Hiện Quỹ Tiền tệ Quốc tế – IMF có 189 thành viên. Còn về nguồn vốn, tính đến năm 2019, tổng nguồn vốn cho vay của IMF là 1.000 tỷ USD. Nguồn vốn này được tạo ra từ nhiều nguồn, trong đó nguồn tài trợ chính của IMF là các hạn ngạch vốn và được thiết lập dựa trên vị thế tương đối của mỗi thành viên trong nền kinh tế thế giới.

Qua đó có thể thấy, hiện IMF đang là một tổ chức lớn mạnh và đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế của thế giới. 

Theo đó, để tìm hiểu các thông tin chi tiết về quá trình thành lập cũng như hoạt động của IMF, bạn có thể truy cập vào trang web Quỹ tiền tệ quốc tế tại đây.

Cơ cấu tổ chức của IMF

Cơ cấu tổ chức của IMF bao gồm những bộ phận chính sau:

Hội đồng thống đốc

Đây là cơ quan quyết định tối cao, bao gồm một thống đốc và một thống đốc thay thế đến từ các quốc gia thành viên. Thông thường, thống đốc sẽ là bộ trưởng tài chính hoặc thống đốc ngân hàng trung ương và được chỉ định bởi quốc gia thành viên.

Các ủy ban Bộ trưởng

Bộ trưởng là: Bao gồm Ủy ban Tiền tệ và Tài chính quốc tế (IMFC- International Monetary and Financial Committee) và Ủy ban Phát triển (Development Committee). Theo đó, hội đồng thống đốc được tham vấn bởi hai Ủy ban Bộ trưởng này.

Ban Giám đốc điều hành

Gồm có 24 thành viên trong Ban Giám đốc điều hành và họ sẽ chịu trách nhiệm quản lý đối với các công việc hàng ngày của IMF. Theo đó, 24 thành viên này sẽ thay mặt cho 189 quốc gia thành viên, sẽ bàn luận và giải quyết tất cả các vấn đề của các nước thành viên như xem xét tình trạng kinh tế cũng như các vấn đề về chính sách kinh tế có liên quan đến nền kinh tế toàn cầu.

IMF có chức năng và nhiệm vụ như thế nào?

IMF có nhiệm vụ chính là đảm bảo sự ổn định của hệ thống tiền tệ quốc tế – hệ thống tỷ giá hối đoái và thanh toán quốc tế cho phép giao dịch giữa các quốc gia và công dân của họ với nhau.

IMF hỗ trợ các nước thành viên thông qua 3 chức năng chính sau: 

Giám sát

Giám sát tình hình kinh tế tài chính toàn cầu và các nước thành viên thông qua việc nghiên cứu, thống kê, phân tích và dự báo các nền kinh tế quốc gia, khu vực hoặc toàn cầu, đồng thời tư vấn cho các nước thành viên về chính sách kinh tế. Bên cạnh đó, IMF sẽ đưa ra cho các nước thành viên lời khuyên đồng thời thúc đẩy các chính sách được thiết kế nhằm thúc đẩy sự ổn định kinh tế, giảm tính dễ bị tổn thương trước các cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính, cải thiện và nâng cao mức sống. 

Hỗ trợ tài chính

Đây chính là trách nhiệm cốt lõi của IMF. Theo đó, khi các nước thành viên gặp phải những khó khăn tạm thời về cán cân thanh toán, IMF sẽ cung cấp hỗ trợ tài chính ngắn và trung hạn cho họ như đưa ra các nguồn vốn cho vay không lãi suất với thời gian đáo hạn dài. 

Phát triển năng lực

Trợ giúp kỹ thuật nhằm cải thiện khả năng điều hành kinh tế cho các nước thành viên như thiết kế và thực hiện hiệu quả các chính sách hơn đối với thuế và quản lý, quản lý chi tiêu, chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái, giám sát và điều tiết hệ thống ngân hàng và tài chính, khuôn khổ lập pháp và thống kê kinh tế.

Quỹ Tiền tệ Quốc tế có những loại tín dụng nào?

Mục đích thành lập Quỹ Tiền tệ Quốc tế – IMF là nuôi dưỡng tập đoàn tiền tệ toàn cầu. Từ đó thiết lập tài chính an toàn và tạo cho thương mại quốc tế những điều kiện thuận lợi cũng như đẩy mạnh việc làm, tăng trưởng kinh tế cao và giảm bớt đói nghèo. Xuất phát từ mục đích này, các loại tín dụng cũng đã được IMF đưa ra để hỗ trợ các nước thành viên trong việc phát triển kinh tế. Cụ thể:

Tín dụng thông thường

  • 100% cổ phần của nước đó tại quỹ là mức cho vay tối đa của loại tín dụng này
  • Thời hạn vay: 3 – 5 năm
  • Thời gian ân hạn: 3 năm
  • Lãi suất một năm dao động trong khoảng 5% – 7,5%
  • Đối với nước được vay, yêu cầu phải có chương trình điều chỉnh kinh tế ngắn hạn.

Vốn vay bổ sung

  • Mức vay: 100% – 350% cổ phần của nước đó tại quỹ (tuỳ theo mức độ thiếu hụt)
  • Thời hạn vay: 3 – 5 năm
  • Thời gian ân hạn: 3.5 năm
  • Tính lãi suất dựa theo lãi suất của thị trường

Vay dự phòng

  • Mức vay tối đa: 62,5% cổ phần
  • Thời hạn vay: 5 năm
  • Thời gian ân hạn: 3.5 năm
  • Áp dụng lãi suất theo thị trường

Vay dài hạn

Đối với nước đi vay phải có chương trình điều chỉnh kinh tế trung hạn. Bên cạnh đó, các khoản vay phải theo sát với việc thực hiện chương trình theo từng quý hoặc năm:

  • Mức vay: 140% cổ phần tại quỹ
  • Thời hạn vay: 10 năm
  • Thời gian ân hạn: 4 năm
  • Lãi suất một năm từ 6 – 7,5%

Vay bù đắp thất thu xuất khẩu

Khoản vay này là dành cho các nước đang phát triển có đột biến thiếu hụt cán cân thương mại trong năm. Theo đó:

  • Mức vay tối đa: 100% cổ phần tại quỹ của nước đó 
  • Thời hạn vay: 3 – 5 năm
  • Lãi suất một năm dao động trong khoảng 5% – 7,5%

Vay chuyển tiếp nền kinh tế

Vay chuyển tiếp nền kinh tế là loại tín dụng mới xuất hiện để hỗ trợ cho các nước chuyển đổi sang kinh tế thị trường từ nền kinh tế tập trung của IMF:

  • Thời hạn vay: 5 năm
  • Thời gian ân hạn 3,25 năm
  • Lãi suất được tính theo mức lãi suất thị trường.

Ngoài các loại tín dụng trên đây thì IMF còn có một số loại tín dụng khác như: Vay để điều chỉnh cơ cấu, vay để duy trì dự trữ điều hòa…

Đối với IMF, các nước thành viên cũng được quyền vay hay quyền rút vốn. Theo đó, đối với quyền rút vốn và dự trữ quốc tế của mình các nước có thể sử dụng để tài trợ cho các khoản thâm hụt cán cân thanh toán. 

Tuy nhiên, các nước thành viên cần đảm bảo cơ chế quyền rút vốn tại IMF như:

– Các nước thành viên có thể rút vốn nếu gặp khó khăn về cán cân thanh toán. Có nghĩa là dùng đồng tiền của nước mình để mua đồng tiền nước ngoài của IMF trong giới hạn bằng 125% hạn mức của mình, trong đó 25% là mức rút đầu tiên mà các nước có thể rút bất kỳ khi nào có nhu cầu. 

– Các nước phải nhất trí với IMF về một chương trình khi muốn rút một hay cả bốn phần 25% còn lại, bao gồm các biện pháp xử lý thâm hụt cán cân thanh toán của mình. 

– Đối với phần rút vốn của mình, các nước thành viên phải hoàn trả lại trong khoảng thời gian từ 3 – 5 năm.

Theo đó, liên quan đến quyền rút vốn của các nước thành viên, để tăng thêm mức cung về phương tiện thanh toán quốc tế, năm 1970 IMF đã tạo ra một tài sản dự trữ quốc tế gọi là Quyền Rút vốn Đặc biệt – SDR. Quyền này cũng tạo ra cho các nước thành viên nghèo của IMF những phương tiện vay nợ bổ sung.

Năm 1970 IMF đã tạo ra tài sản dự trữ quốc tế SDR

Năm 1970 IMF đã tạo ra tài sản dự trữ quốc tế SDR

Quỹ Tiền tệ Quốc tế có vai trò gì đối với sự phát triển kinh tế?

IMF đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động kinh tế nói chung và tiền tệ nói riêng. Cụ thể:

– Đối với các nước, IMF đóng vai trò trong việc phát triển các công cụ để đo lường, đánh giá và cải thiện tình hình kinh tế vĩ mô, bao gồm chính sách tài khóa và tiền tệ, cũng như ổn định tài chính, tiền tệ và giá cả. 

– IMF sẽ giúp tạo ra một cộng đồng toàn cầu các chuyên gia thực hành thông qua đối thoại, nghiên cứu, tư vấn, cũng như hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo. 

– Đối với các vấn đề tiền tệ quốc tế, IMF đóng vai trò trong việc thúc đẩy hợp tác quốc tế thông qua một thiết chế thường trực có trách nhiệm cung cấp một bộ máy tư vấn và hợp tác nhằm giải quyết các vấn đề này.

– Quỹ tiền tệ Quốc tế góp phần vào việc tăng cường và duy trì ở mức cao việc làm, thu nhập thực tế cũng như phát triển nguồn lực sản xuất của tất cả các thành viên thông qua việc tạo điều kiện mở rộng, tăng trưởng cân đối hoạt động mậu dịch quốc tế.

– Tăng cường ổn định ngoại hối để các hoạt động giao dịch ngoại hối giữa các thành viên có thể duy trì một cách có trật tự. Từ đó có thể tránh tình trạng phá giá tiền tệ để cạnh tranh với nhau giữa các quốc gia.

– Hỗ trợ thiết lập hệ thống thanh toán đa phương giữa các nước thành viên cũng như xoá bỏ các hạn chế về ngoại hối khiến cho sự tăng trưởng của mậu dịch quốc tế bị ảnh hưởng.

– IMF đã tạo niềm tin cho các nước thành viên bằng việc cung cấp các nguồn lực dự trữ của quỹ, đảm bảo an toàn từ đó tạo ra cơ hội sửa chữa mất cân đối trong cán cân thanh toán quốc tế cho các nước.

– IMF có vai trò quan trọng đối với việc giảm bớt mức độ cân bằng cũng như rút ngắn thời gian trong cán cân thanh toán của các nước thành viên.

Mối quan hệ giữa IMF và Việt Nam

Việt Nam chính thức tiếp quản tư cách hội viên tại IMF/WB/ADB sau đại thắng mùa xuân năm 1975 và được quyền hưởng các khoản vay từ IMF. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam vinh dự được Ðảng và Nhà nước giao sứ mệnh thay mặt nước CHXHCN Việt Nam là đại diện tại các tổ chức này.

Trong giai đoạn 1976-1981, IMF đã cho Việt Nam vay khoảng 200 triệu Quyền rút vốn đặc biệt (SDR) theo các điều kiện ưu đãi về lãi suất và thời hạn giúp Việt Nam khắc phục các khó khăn trong cán cân thanh toán. Tiếp đó, đến năm 1978, WB đã cho Việt Nam vay một khoản tín dụng trị giá 60 triệu USD để thực hiện dự án Thủy lợi Dầu Tiếng giai đoạn 1978-1983.

Tuy nhiên, sau khi Việt Nam phát sinh nợ quá hạn thì quan hệ giữa Việt Nam với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế bước vào một thời kỳ vô cùng khó khăn khi Việt Nam bị IMF và tiếp sau đó WB/ADB đình chỉ quyền vay vốn. Trong suốt thời gian từ 1985 đến tháng 10/1993, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, NHNN đã phối hợp các bộ, ngành liên quan kiên trì các nỗ lực ngoại giao, mối quan hệ giữa Việt Nam – IMF/WB/ADB được duy trì thông qua đối thoại chính sách chủ yếu dưới hình thức tham khảo thường niên về kinh tế vĩ mô. Đến tháng 8/1989, với những diễn biến thuận lợi về mặt chính trị, cùng với sự kiên trì đề nghị và đàm phán thuyết phục, WB đã có những chuyển biến tích cực và cử Ðoàn kinh tế vào Việt Nam.

Đến tháng 10/1993, Việt Nam chính thức nối lại quan hệ tín dụng với ba tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế là Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) nhờ sự nỗ lực to lớn và quyết tâm thực hiện cải cách của Chính phủ Việt Nam cùng với sự vận động dàn xếp tài chính thiện chí của các nhà tài trợ thuộc Câu lạc bộ Paris. Ðây chính là kết quả của quá trình đàm phán kiên trì để huy động nguồn tài trợ cho việc trả hết các khoản nợ quá hạn của Chính phủ ta với các chính phủ và một số ngân hàng nước ngoài.

Ngay sau đó, WB và ADB cũng như các nhà tài trợ quốc tế khác đã bình thường hóa quan hệ tín dụng với Việt Nam, điều đó thể hiện qua việc Việt Nam đã được WB hỗ trợ một khoản vay trị giá 35 triệu USD để thanh toán nợ CLB Luôn Ðôn, tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam có thể huy động các nguồn vốn trên thị trường tài chính quốc tế.

Trong giai đoạn 1993 – 2004, Việt Nam đã được IMF cung cấp 4 khoản vay với tổng vốn cam kết 1.094 triệu USD, giải ngân được 670.8 triệu USD – trong đó của chương trình Tăng trưởng và Xoá đói Giảm nghèo PRGF là 209.2 triệu USD.

Tiếp tục phát triển hơn nữa quan hệ giữa Việt Nam và IMF

Tiếp tục phát triển hơn nữa quan hệ giữa Việt Nam và IMF

Từ đó đến nay, nguồn tài trợ từ các tổ chức này chiếm một phần không nhỏ trong tổng đầu tư toàn xã hội, các tổ chức này đã trợ giúp cho Việt Nam cả về tài chính và kỹ thuật ngày càng nhiều hơn và có ý nghĩa, góp phần giúp Việt Nam đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Cụ thể, hàng năm nhiều hoạt động tư vấn chính sách đã được IMF tích cực thực hiện và hỗ trợ kỹ thuật cho Việt Nam trong các lĩnh vực ngân hàng, tài chính, thương mại, cải cách doanh nghiệp nhà nước, tiền tệ, ngoại hối, thị trường mở, thanh tra ngân hàng, cải cách thuế (tư vấn cho Bộ Tài chính), xác định mục tiêu lạm phát, chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố,… 

Ðặc biệt, các khoản hỗ trợ Việt Nam đều nhấn mạnh mục tiêu hỗ trợ Việt Nam thực hiện các chương trình cải cách của Chính phủ, như khoản vay Dự phòng (SBA), Ðiều chỉnh Hệ thống (STF), Ðiều chỉnh Cơ cấu mở rộng (ESAF), và Tăng trưởng và Xóa đói giảm nghèo (PRGF) của IMF, và các khoản vay Tín dụng Ðiều chỉnh Cơ cấu (SAC), Tín dụng Hỗ trợ giảm nghèo (PRSC) của WB và Khoản vay chương trình nông nghiệp của ADB,… Theo đó, các khoản vay này đã góp phần hỗ trợ cán cân thanh toán của Việt Nam về mặt tài chính, cũng như trong quá trình cải cách và chuyển đổi nền kinh tế đã góp phần trang trải một phần chi phí phát sinh.

Trong quá trình thu hút các nguồn lực để phát triển kinh tế đất nước từ cả trong nước và ngoài nước, việc xây dựng cơ sở hạ tầng và các dịch vụ xã hội đóng một vai trò rất quan trọng. Theo đó, WB và ADB là hai tổ chức đóng góp rõ rệt nhất cho việc phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội của Việt Nam. Trong đó, các khoản vay có giá trị lớn, dài hạn với lãi suất ưu đãi và thời gian ân hạn dài là nguồn vốn quý báu giúp Việt Nam đầu tư vào các dự án phát triển cơ sở hạ tầng trọng điểm của đất nước. Các lĩnh vực mà hai tổ chức này đều tập trung và đặt ưu tiên cao như: nông nghiệp và phát triển nông thôn, thủy lợi, năng lượng, cơ sở hạ tầng đô thị và nông thôn, giao thông, y tế và giáo dục. Các dự án của WB và ADB đóng góp tích cực và có hiệu quả vào việc nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế, phát triển các dịch vụ xã hội, tăng cường thể chế và phát triển nguồn nhân lực, và quản lý tài nguyên thiên nhiên.

Trong lĩnh vực phát triển và cải cách nền kinh tế và xây dựng cơ sở hạ tầng, những thành quả đã đạt được này chính là cơ sở giúp Việt Nam đạt được những thành tựu trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo và nâng cao mức sống của người dân. Đối với những thành tựu về xóa đói, giảm nghèo của Việt Nam thì những đóng góp của IMF, WB và ADB là không thể phủ nhận. Theo đó, mọi chương trình và khoản vay của IMF, WB và ADB hướng tới là tăng trưởng và xóa đói, giảm nghèo. Và thông qua việc thực hiện các chương trình, dự án, công cuộc xóa đói, giảm nghèo của Việt Nam đã có những bước tiến đáng khâm phục.

Bên cạnh đó, với các khóa đào tạo, hội thảo ngắn hạn và xuất học bổng dài hạn theo chương trình do IMF tài trợ tại Singapore, Áo, Mỹ đã có hàng trăm lượt cán bộ Ngân hàng Nhà nước và các bộ ngành liên quan được tạo điều kiện tham dự.

Từ tháng 4/2004 đến nay, dù giữa Việt Nam – IMF không còn chương trình vay vốn nhưng quan hệ giữa hai bên vẫn tiếp tục được duy trì tốt đẹp.

Nhìn chung, những lợi ích phát triển mà Việt Nam thu được sau khi nối lại quan hệ tín dụng với ba tổ chức IMF, WB và ADB là tương đối lớn và được công nhận rộng rãi của cộng đồng quốc tế. Bên cạnh nguồn vốn hỗ trợ ưu đãi cho phát triển kinh tế và xóa đói, giảm nghèo, Việt Nam còn nhận được những trợ giúp kỹ thuật quý báu từ IMF, WB và ADB, giúp Việt Nam tiến tới áp dụng những chuẩn mực được quốc tế công nhận.

Chặng đường phía trước còn nhiều thách thức, nhưng dưới sự lãnh đạo của Ðảng và Nhà nước, nỗ lực của toàn dân và sự hợp tác tích cực của các tổ chức quốc tế như IMF, WB và ADB, chắc chắn Việt Nam chúng ta sẽ đạt được mục tiêu xây dựng đất nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

Một số câu hỏi liên quan đến Quỹ Tiền tệ Quốc tế

Việt Nam tham gia Quỹ Tiền tệ Quốc tế năm nào?

Năm 1956, Việt Nam Cộng hòa gia nhập Quỹ Tiền tệ Quốc tế và kế thừa ghế hội viên vào năm 1975. Đến năm 1976 thì CHXHCN Việt Nam chính thức tham gia chiếu theo hội viên của hai quốc gia trước, chính thức thực hiện quy chế hội viên của Việt Nam tại IMF và được quyền hưởng các khoản vay từ IMF. 

Giám đốc điều hành Quỹ Tiền tệ Quốc tế hiện tại là ai?

Sau khi bà Christine Lagarde từ chức để nhận nhiệm vụ lãnh đạo Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB), người được bổ nhiệm vào cương vị người đứng đầu mới của thể chế tài chính gồm 189 nước thành viên bà Kristalina Georgieva, người Bulgaria. Bà là người trên cương vị Tổng Giám đốc Quỹ tiền tệ Quốc tế hiện tại

Nhiệm kỳ tại IMF của bà Georgieva có thời hạn 5 năm, bắt đầu từ ngày 1/10/2019. Tiếp nối thành công của bà Lagarde, bà Georgieva đã trở thành nữ Tổng Giám đốc thứ 2 của IMF với bề dày kinh nghiệm đáng nể trong lĩnh vực kinh tế – tài chính.

Chuyên gia IMF là gì? 

Nhân viên cao cấp làm việc cho Quỹ Tiền tệ Quốc tế được gọi là chuyên gia IMF. Theo đó, nhiệm vụ của các chuyên viên IMF là giám sát, tư vấn cho các nước thành viên về chính sách kinh tế. Điều này được thực hiện thông qua việc nghiên cứu, thống kê, phân tích và dự báo các nền kinh tế quốc gia, khu vực hoặc toàn cầu.

Chuyên gia IMF

So sánh Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế Giới (WB)

Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) được thành lập cùng nhau tại Bretton Woods, New Hampshire vào tháng 07/1944. Đây là hai tổ chức lớn trên thế giới có liên quan đến sự phát triển kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, giữa Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) có những điểm khác biệt riêng như sau:

Tiêu chí so sánh Quỹ Tiền tệ Quốc tệ (IMF) Ngân hàng Thế giới (WB)
Giống nhau Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) được thành lập cùng nhau tại Bretton Woods, New Hampshire vào tháng 07/1944 và được thành lập với mục đích hỗ trợ nền kinh tế thế giới.

– Trụ sở chính của cả hai đều đặt tại Washington, D.C (Mỹ).

Khác nhau
Vai trò Bảo vệ hệ thống tiền tệ Phát triển kinh tế
Mục đích – Giám sát chính sách kinh tế của các thành viên và sự trao đổi tiền tệ tự do trong hệ thống tỷ giá cố định. 

Để duy trì trật tự tài chính này, IMF hoạt động như một nhà cung cấp cho các thành viên những khoản vay khẩn cấp khi họ gặp khó khăn về tài chính.

– Chủ yếu hỗ trợ cho các quốc gia nghèo phát triển kinh tế bằng cách tài trợ cho các dự án cụ thể nhằm giúp nâng cao năng suất.

– WB bao gồm hai tổ chức: Ngân hàng Quốc tế về Tái thiết và Phát triển (IBRD) và Hiệp hội Phát triển Quốc tế (IDA). Trong đó:

+ IBRD cho các quốc gia đang phát triển vay với lãi suất ưu đãi.

+ IDA chỉ cho các nước nghèo nhất vay và không tính lãi suất.

Nhân viên – Số lượng nhân viên của IMF có khoảng 2.600 và khoảng một nửa trong số đó là các nhà kinh tế.

– Hầu hết các nhân viên IMF làm việc ở Washington, DC và số còn lại làm việc tại ba văn phòng nhỏ ở Paris, Geneva và Liên Hiệp Quốc ở New York.

– WB có khoảng 10.000 nhân viên tại hơn 160 quốc gia trên thế giới.

Nhân sự của WB đa dạng, bao gồm các chuyên gia lão luyện thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như: nhà kinh tế, nhà khoa học, các nhà phân tích, các chuyên gia công nghệ thông tin và kỹ sư,…

Số lượng thành viên – IMF gồm có 189 thành viên

– Theo đó, các quốc gia phải làm thủ tục xin phép và được các thành viên khác chấp nhận thì mới có thể trở thành thành viên của IMF.

– Gồm có 187 thành viên

– Các thành viên sẽ thông qua Hội đồng Thống đốc và chi phối Ngân hàng Thế giới.

Nguồn lực tài chính – Quỹ tài chính của IMF được xây dựng thông qua phí thành viên, được gọi là hạn ngạch.

– Theo đó, tiền cho một hạn ngạch mà mỗi quốc gia thành viên sẽ trả dựa trên quy mô kinh tế của quốc gia mình. Do đó, số tiền mà quốc gia lớn phải trả sẽ nhiều hơn so với các quốc gia bé.

– Qũy tài chính của IBRD được xây dựng từ việc phát hành trái phiếu cho các nhà đầu tư

– Còn quỹ tài chính của IDA có được là từ các khoản tiền đóng góp hảo tâm từ các nhà tài trợ. 

Bên cạnh đó, WB còn thu tiền từ việc bán trái phiếu trực tiếp cho các chính phủ, tổ chức và ngân hàng trung ương của các nước.

Điều kiện vay tiền Cho phép mọi nước thành viên, bất luận giàu nghèo, đều có thể nhận được sự hỗ trợ tài chính. Theo đó, các nước thành viên có quyền nhờ IMF hỗ trợ và can thiệp khi chính sách kinh tế lệch hướng hay hệ thống tiền tệ trong nước gặp biến động.

–  Thời gian hoàn trả trong thời gian 3 – 5 năm (hoặc chậm nhất là 10 năm).

– Thường chỉ cho các nước đang phát triển vay, nước càng nghèo càng dễ vay, theo đó:

+ Có thể xin vay ở IBRD đối với các nước đang phát triển (GNP/đầu người vượt quá 1.305 USD) và phải hoàn trả trong thời gian là 12-15 năm.

+ Đối với các nước cực nghèo (GNP/đầu người dưới 1.305 USD) thì có thể đến xin vay ở IDA và thời gian hoàn trả là sau 35 – 40 năm.

Kết luận

Vừa rồi là những chia sẻ về Quỹ Tiền tệ Quốc tế – IMF là gì, vai trò của IMF đối với sự phát triển kinh tế cũng như mối quan hệ giữa việt Nam và tổ chức này. Qua những nội dung trên đây có thể thấy, Quỹ Tiền tệ Quốc tế – IMF đang ngày càng phát triển và có những chính sách hướng đến mục tiêu phát triển, hỗ trợ cho các nước thành viên về tiền tệ và kinh tế, qua đó đảm bảo nền kinh tế có thể phát triển một cách toàn diện. Hy vọng qua bài viết này, bạn đọc quan tâm đã trang bị được thêm những kiến thức hữu ích về Quỹ Tiền tệ Quốc tế – IMF. Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết.

Tôi là Lan Anh - Biên tập viên phân tích tài chính, với 5 năm tìm hiểu về thị trường tài chính cũng như đầu tư. Rất hy vọng những kiến thức mà tôi học hỏi và tích lũy được có thể hỗ trợ, cung cấp đến các bạn những thông tin chính xác, tư vấn hỗ trợ xử lý các dịch vụ tài chính, đầu tư hiệu quả nhất!

dang-ky-dau-tu-nhat-nam

ĐĂNG KÝ TƯ VẤN MIỄN PHÍ NGAY

[contact-form-7 id="567" title="Form đăng ký Nhật Nam"]

BÀI VIẾT CÙNG CHUYÊN MỤC